Phong Tục Tập Quán Việt Nam về Tình Yêu và Gia Ðình qua Ca DaoBùi Hữu Thư (
11/26/14)
Phong
Tục Tập Quán Việt Nam về Tình Yêu và Gia Ðình qua Ca Dao
Bùi Hữu Thư
Ca dao tục ngữ thuộc nền văn học
bình dân, khác với nền văn học bác học, phát xuất từ tư tưởng của giai cấp
thống trị, phong lưu đài các. Nền văn học bình dân phản ảnh tâm tư của đại đa
số quần chúng nghèo khổ dốt nát, tiếng nói của họ là tiếng nói chung của những
người cùng hoàn cảnh cùng số phận và là tiếng nói chân thành nhất của mỗi dân
tộc trong sinh hoạt xã hội.
“Trong kho tàng văn học truyền khẩu,
bao gồm tục ngữ, ca dao và truyện cổ, thì ca dao là bộ phận diễn xuất những
tình cảm chân thật, tự nhiên, nhưng ý vị dồi dào, từ điệu phong phú, nên có giá
trị rất cao.”
Ca là hát ngân giọng dài ra hay là
khúc hát đặt hợp với nhạc. Dao là hát trơn, không hiệp theo với điệu nhạc. Ca
dao theo Khang Hy tự điển
là những bài hát theo những giọng điệu tự nhiên, không biết ai là tác giả, do
khẩu truyền mà lưu hành phổ thông trong dân gian. Nhiều bài mô tả tâm hồn nam
nữ, tính tình phong tục, tư tưởng dân gian, và thấm nhuần mầu sắc xứ sở quê
hương. Do đó ca dao còn có tên là phong dao, cũng là bài ca, câu hát tỏ bày
phong tục.
Trong mọi ngôn ngữ, ca dao tục ngữ
về đề tài tình yêu nam nữ luôn luôn có nhiều hơn cả. Có thể nói, tình yêu nam
nữ là đề tài chính yếu và vĩnh cửu trong loại hình sáng tác dân gian này.
Những câu và bài ca dao sau đây đề
cập tới mọi mặt, mọi mối quan hệ trong tình yêu:
Tình tự tại đình làng:
Cổ tục làng Viêm Xá, Bắc Ninh cho phép trai gái gặp gỡ để cùng nhau thi đua qua
câu hát. Ðây là một thú vui của trai gái tỉn Bắc Ninh. Ca dao vùng này có câu:
Hát cho lở đất long trời,
Cho đời biết mặt, cho người biết tên.
Hát từ chợ phủ hát lên,
Hát xuốt tỉnh Bắc qua miền tỉnh Ðông.
Hát sao cho cạn giòng sông,
Cho non phải lở, cho lòng phải say
Tục lệ ném cầu bói chuyện hôn nhân: Làng Phú Sơn tỉnh Thanh Hóa hàng năm mở hội vào ngày 15
tháng giêng, để trai gái ném cầu bói chuyên hôn nhân. Họ hát trước khi ném cầu,
cặp nào ném cầu trúng lồng thì được thưởng và còn phải hẹn cưới nhau:
Cầu này là quả thiên duyên,
Ðôi ta mà trúng kết nguyền cùng nhau.
Tục Lệ Tỏ tình:Trai
gái gặp nhau lúc đi làm đồng, lúc đi chợ, hay cùng sang ngang một chuyến đò:
Ðêm qua trời sáng trăng rầm,
Anh đi qua cửa, em nằm không yên.
Mê anh chẳng phải mê tiền,
Thấy anh lịch sự, có duyên, dịu dàng.
Thấy anh em những mơ màng,
Tưởng rằng đây đấy, phượng hoàng kết đôi.
Chờ chiều hẹn chuyến đò ngang,
Trai làng cùng với gái làng qua sông,
Ngập ngừng câu chuyện bông lông,
Hôm sau thành vợ thành chồng với nhau
Và
những lời thề thốt:
Trăm năm ý quyết một lòng,
Dù ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai.
Dẫu cho đá nát vàng phai,
Trăm năm duyên nợ chẳng sai chút nào.
Thủy chung em giữ trọn lời,
Chết thì chịu chết, lìa đôi không lìa.
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất bát sông cũng lội, tam thập lục đèo cũng qua
Sông sâu cá lội mất tăm,
Chín tháng cũng đợi, mười năm cũng chờ.
Tỏ tình bằng lời khen:
Cổ tay em trắng như ngà,
Con mắt em liếc, như là dao cau.
Miệng cười như thể hoa ngâu,
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
Hay bằng lời bầy tỏ mộng ước:
Ước gì anh hóa ra chăn,
Ðể cho em đắp, em lăn, em nằm.
Tục lệ ăn trầu:
Trai gái gặp nhau, đã quen thuộc, họ mời nhau miếng trầu, điếu thuốc. Miếng
trầu là đầu câu chuyện:
Mẹ em hằng vẫn khuyên răn,
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
Trầu này trầu ái, trầu ân,
Trầu nhân, trầu nghĩa, trầu mình, trầu ta.
Trầu này nhuộm thắm duyên ta,
Ðầu xanh cho tới tuổi già không phai.
Tục lệ lấy người cùng làng: Các cô thường nói “Lấy chó trong làng còn hơn lấy người
sang thiên hạ. Cha mẹ cũng không muốn gả con xa:
Có con mà gả chồng gần.
Có bát canh cần nó cũng mang cho.
Hoài con mà gả chồng xa,
Ăn một bữa cỗ, lội ba quãng đồng.
Tục lệ gả bán: Có rất nhiều cảnh lấy chồng nghèo, lấy chồng
già, lấy chồng quá trẻ, hay chồng không ra gì. Hôn nhân xưa "cha mẹ đặt
đâu con ngồi đấy", là hôn nhân gả bán, nên có biết bao cảnh ngang trái, mà
nạn nhân thường là phụ nữ.
Dù phải lấy chồng nghèo hay chồng
già cũng phải nhẫn nhục chịu đựng:
Chồng
người xe ngựa người thương,
Chồng em
khố rách em chiều em thương.
Vô duyên vô phúc,
Múc phải anh chồng già.
Ra đường người hỏi: rằng cha hay chồng?
Nói ra đau đớn trong lòng,
Ấy cái nợ truyền kiếp, có phải chồng em đâu.
Hay phải lấy
chồng nhỏ tuối hơn: Làm dâu mà như làm vú em nuôi chồng:
Mẹ em tham thúng xôi dền
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.
Em đã bảo mẹ rằng đừng,
Mẹ hấm mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào.
Bây giờ chồng thấp vợ cao,
Như đôi đũa lệch, so sao cho vừa.
Chồng em
thì thấp một gang
Vắt mũi chưa sạch, ra đàng đánh nhau.
Nghĩ mình càng tủi càng đau,
Trách cha trách mẹ tham giàu khổ em.
Tục lệ Gởi Rể:Anh
chàng nghèo lăn lưng vào chỗ no cơm ấm cật. Làm ruộng cho ông bà nhạc vất vả
nhưng ăn uống chẳng có gì, đã xót ruột vì cà. Sau mười hai vại cà mà vẫn không
được cưới:
Công anh làm rể Chương Ðài,
Ăn hết mười một, mười hai vại cà,
Giếng đâu thì dắt anh ra,
Kẻo anh chết khát vì cà nhà em.
Tục lệ thách cưới:
Trước khi cưới thì nhà trai phải thăm dò xem ý nhà gái thách cưới thế nào. Nếu
không lo cho đủ thì phải hoãn ngày cưới lại:
Em là con gái nhà giầu,
Mẹ cha thách cưới ra màu xinh sao.
Cưới em trăm tấm lụa đào
Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời.
Tục lệ Tế Tơ Hồng:
Khi xưa tế Tơ Hồng ngay sau khi đón dâu về nhà, và trước khi lễ gia tiên và
chào mừng ông bà họ hàng. Tế Tơ Hồng là để tạ ơn ông Tơ chắp mối xe duyên.
Nhưng nếu cơm không lành canh không ngọt, thì lại oán trách ông Tơ:
Tay em nắm lấy tay anh,
Dù ai nói quẩn nói quanh mặc lòng.
Tay ấy đáng vợ, đáng chồng,
Duyên trời đã định tơ hồng đã xe
Ông Tơ sao khéo đa đoan,
Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên.
Bắc thang lên hỏi ông trời,
Bắt ông Nguyệt Lão đánh mười cẳng tay.
Ðánh thôi lại trói vào đây,
Hỏi ông Nguyệt Lão: Nào giây tơ hồng.
Tục lệ Tam Tòng: Chế
độ “tòng phu” của Khổng Mạnh đã làm cho đàn ông có đặc quyền. Bổn phận người vợ
là chiều chồng nuôi con, và phục tùng ý muốn người chồng trong gia đình:
Vai mang khăn gói theo chồng,
Mẹ kêu mặc mẹ, theo chồng phải theo.
Có con phải khổ vì con,
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
Con quốc kêu khắc khoải mùa hè,
Làm thân con gái phải nghe lời chồng.
Sách có chữ rằng: “Phu xướng phụ tòng”.
Làm thân con gái lấy chồng xuất gia,
Tục lệ Mẹ chồng nàng dâu:Cảnh
mẹ chồng nàng dâu:
Thật thà
cũng thể lái trâu,
Yêu nhau
cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Kể từ hai tám tuổi đầu,
Cha mẹ sở định làm dâu nhà người.
Nói ra sợ chị em cười,
Năm ba trận thảm, chín mười trận cay.
Công việc làm không kịp trở tay,
Ban đêm rau heo, cháo chó,
Ban ngày nhổ cỏ, gánh phân.
Tục lệ Ða Thê: Nguyên nhân chính là phải có con
trai nối dõi tông đường. Cho nên chúng ta không khỏi xót xa, thương cảm cho
những số phận không may mắn, phải sống trong cảnh cô đơn vò võ của người đàn bà
bất hạnh phải làm lẽ:
Có chồng
mà chẳng có con,
Cững bằng hoa nở trên non một mình.
Chồng giận
thì vợ làm lành,
Miệng cười tủm tỉm rằng anh giận gì?
Thưa anh, anh giận em chi?
Muốn cưới vợ bé, em thì cưới cho.
Ðêm nằm vò
võ
Một xó giường không
Trời ơi, có cực hay không?
Người năm bảy vợ, người không vợ nào!
Lấy chồng làm lẽ khổ thay
Ði cấy, đi cày chị chẳng kể công.
Ðến tối chị giữ lấy chồng
Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài.
Lấy chồng
làm lẽ khỏi lo,
Cơm nguội
đầy rá, cá kho đầy nồi.
Hiếu đạo với ông bà cha mẹ: Ngườicon hiếu thảo có ý thức đầy đủ về tìnhcảm và bổn phận
của mình đối với cha mẹ. Ðó là sự biết ơn cù lao chin chữ: “cha sinh ta, mẹ
nuôi ta, thương cha mẹ”
Tình cảm trong hiếu đạo đã được phô
diễn qua ca dao, và diễn tả những gì cao cả nhất của tâm hồn:
Ơn cha nặng lắm ai ơi,
Nghĩa mẹ bằng trời, chin tháng cưu mang.
Chiều chiều xách giỏ hái rau,
Ngó lên mả mẹ ruột đau chín chiều.
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chẩy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Làm người có tổ có tông,
Như cây có cội, như sông có nguồn.
Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Khôn ngoan nhờ ấm cha ông,
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ.
Ðạo làm con chớ có hững hờ,
Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm.
Tình anh chị em:
Người bình dân Việt Nam thời xưa xem
trọng tình anh em hơn tình vợ chồng:
Anh em cốt nhục đồng bào,
Vợ chồng như áo mặc vào cởi ra.
Anh em nào phải người xa,
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân.
Yêu nhau như thể tay chân,
Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy.
Chị ngã thì em phải nưng,
Ðừng thấy chị ngã, em bưng miệng cười.
Khôn ngoan đá đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Hôn nhân hạnh phúc:
Ðôi ta là
nghĩa tào khang,
Xuống khe bắt ốc, lên đàng hái rau.
Trên đồng
cạn dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Bước vào
phòng học gọi chồng,
Trở ra sắp
gánh sắp gồng ra đi,
Không đi
thì chợ không đông,
Ði ra một
bước nhớ chồng nhớ con.
Chung thủy, không thay chồng đổi vợ:.
Chẳng thà
giục mã về không
Không thèm cướp vợ, tranh chồng người ta.
Thay quần, đổi áo thì xinh
Thay chồng đổi vợ, kẻ khinh người cười.
Tình yêu đau khổ:Tuy
nhiên nhiều khi yêu nhau mà không lấy được nhau vì có sự chênh lệch về gia cảnh, vì cha mẹ ngăn cấm. Do đó có
nhiều trái tim tan nát:
Trèo lên
cây bưởi hái hoa,
Bước xuống ruộng cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng anh tiếc lắm thay.
Ðôi ta như chỉ mới xe,
Như măng mới mọc, như tre mới trồng.
Ðôi ta như lúc đòng đòng,
Ðẹp duyên mà chẳng đẹp lòng mẹ cha.
Yêu nhau chẳng lấy được nhau,
Mài dao đánh kéo, cạo đầu đi tu.
Tương Tư:Nhớ
nhung là tâm trạng chung của những người đang yêu cũng được mô tả trong nhiều
bài ca dao:
Ai đi
đường ấy xa xa,
Ðể em ôm bóng trăng tà năm canh.
Nước non một gánh chung tình,
Nhớ ai, ai
có nhớ mình chăng ai?
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,
Ðêm quên giấc ngủ, ngày mơ tiếng cười.
Phụ tình:Khi
đã cùng nhau thề thốt, nhưng lại tham vàng bỏ nghĩa, âu duyên mới, nhạt tình
xưa:
Tham vàng phụ nghĩa ai ơi,
Vàng thì đã hết, nghĩa tôi vẫn còn.
Em xinh
như đóa hoa sen
Phận anh bèo bọt chẳng chen được vào.
Bao giờ gió cả, mưa rào
Cho sen chìm xuống, bèo trèo lên trên.
Trách
người quân tử bạc tình,
Có gương mà để cạnh mình chẳng soi.
Trách
người quân tử vô danh,
Chơi hoa
xong lại bẻ cành bán rao.
Kết luận: Ca dao
vừa là bài thơ vừa là bản nhạc nói lên cuộc sống truyền thống của dân tộc Việt
Nam.Qua
ca dao, hình ảnh về đời sống xã hội và các phong tục Việt Nam cổ truyền còn
được thấy lại đầy đủ. Trong cơ cấu kiến trúc xã hội Việt Nam, gia đình là đơn
vị căn bản, có vợ chồng, cha mẹ, con cái sống chúng dưới một mái nhà. Các phong
tục về chọn vợ gả chồng, về tình yêu trai gái và hôn nhân, cũng như lề thói gia
đình đều bàng bạc trong ca dao.
Ca dao giúp cho người dân có cơ hội
bầy tỏ tâm tình, giúp cho đạo lý được duy trì qua phương tiện truyển khẩu, và
cũng giúp cho chúng ta những người thuộc thời đại này hiểu biết về các phong
tục cổ truyền đã phần nào mai một.
Phạm Văn Diêu, Văn Học Việt Nam, Quyển Thượng, Tân Việt xuất bản, t. 238
Nguyễn Tấn Long-Phan Canh, Thi Ca Bình Dân Việt Nam:Toà Lâu Ðài Văn Hóa
Dân Tộc, Xuân Thu, t.475
Nhất Thanh, Vũ Văn Khiếu: Ðất Lề Quê Thói: Phong Tục Việt Nam, Ðại
Nam xuất bản, t. 76
Nguyễn Thùy & Trần Minh Xuân: Tinh Thần Việt Nam, Mekong-Tynạn, 1992,
t.253
Nguyễn Tấn Long-Phan Canh, Thi Ca Bình Dân Việt Nam:Toà Lâu Ðài Văn Hóa Dân Tộc, Xuân Thu,
t.145