|
|
|
|
Kư Sự của Nữ Nhiếp Ảnh Gia Việt Đặng Mỹ HạnhSUE CONG ( 11/07/12)
February 11th, 2012, 4:43 pm
Thế Giới Quanh Ta - Arizona Kư Sự
Đặng
Mỹ Hạnh là nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp về wildlife với những tác phẩm
được nhiều lần b́nh chọn Best Photo của tạp chí Birder’s World Magazine;
một số tác phẩm của ĐMH đă được chọn vào chung kết của cuộc thi Nhiếp
Ảnh Quốc Tế do BBC Wildlife tổ chức.
ĐMH c̣n là nhiếp ảnh gia nổi bật Featured
Photographer của Hội Điểu Cầm Học nổi tiếng - trường Đại Học Cornell
University, Laboratory of
Ornithology.
Tốt nghiệp ngành Graphic Design, Đặng Mỹ
Hạnh vẫn luôn sáng tạo trong lănh vực nhiếp ảnh nghệ thuật, thiết trí
và duy tŕ niềm đam mê nghề nghiệp trong những cuộc phiêu lưu hoang dă
đầy ngoạn mục.
Ngày một
Chiếc Ford Escape khởi hành trên lộ tŕnh dài dọc theo chuỗi xa lộ trong thành phố trước khi rẽ vào quốc lộ I-10.
Qua khỏi Indio đă cảm nhận cái nóng hậm hực của vùng sa mạc.
Xế
chiều. Yippie-ie-o! Biên giới Arizona – một trong những tiểu bang của
miền Tây hoang dă (The Wild West) với những trận chiến thời
cao bồi/da đỏ vào cuối thế kỷ thứ 19 - chiếc xe trực chỉ tiến đến thành
phố giữa sa mạc Phoenix (thủ đô, thành phố lớn nhất của tiểu bang
Arizona).
Hai lữ khách quẩn quanh quan sát giá biểu xăng. Bữa ăn tối vội vă ở nhà hàng Golden Corral tạm hài ḷng hai cái bao tử teo tóp.
Đoạn đường đến thành phố Tucson, ào ạt cơn mưa như thác nước đổ vội.
8
giờ đồng hồ dài trên xa lộ, xe tấp vội vào thuộc thành phố Green Valley
gần biên giới Mễ Tây Cơ. Với khoảng thời gian ngắn để nghỉ ngơi và kịp
với lịch tŕnh săn ảnh, hai chúng tôi phải tạm gác đi những tiện nghi
của hotel, nhà trọ.
Khoảng cách từ thành phố Phoenix chỉ một vài tiếng lái xe nhưng sự khác biệt của khí hậu gần vùng núi khá thoáng đăng, mát rượi.
Đêm,
tôi lặng nghe những thanh âm khua động; tiếng hắc tiêu vẳng vọng; tiếng
cây cối chuyển ḿnh trong gió; tiếng xịch đỗ của những chuyến xe đêm…
Ngày hai
Đồng hồ báo thức 4:00 sáng! Uể oải rời xe. Vài động tác thể dục tạm thư giăn cái thế nằm tựa con tôm rim cong queo suốt đêm.
Trời nhá nhem. Tôi dọ dẫm lối vào restroom. Một biển chú ư “Coi chừng
rắn độc và ḅ cạp” (Poisonous snakes & scorpions) ở vùng này; chợt
liên tưởng đến kinh nghiệm bản thân trong hành tŕnh săn ảnh wildlife ở
tiểu bang Texas, khoảnh khắc của cảm giác háo hức xen lẫn sợ hăi khi đối
mặt với một loài rắn độc lục lạc Rattlesnake.
Mưa tạnh hẳn. Thoáng xa, những đám mây trắng dày đặc bao bọc quanh chân núi. Quang cảnh tuyệt đẹp
buổi sớm mai được thu nhận qua ống kính của Nhiếp ảnh gia Andy Nguyễn.
Vùng núi Madeira Canyon
Mặt trời nấp né sau những đám mây. Khoảng cách từ rest
area đến thung lũng Madera Canyon cũng chỉ 23 dặm; sự sắp xếp của Andy
luôn chi tiết và hợp lư!
Xa lộ I-19 trên đường đến Nogales (thị
trấn sát biên giới Mễ Tây Cơ) với những bản hướng dẫn dọc đường dùng đơn
vị km thay cho miles.
Chiếc xe rề rà trên con đường đất tiến sâu vào thung lũng Madera
Canyon. Tôi chú ư đến giống xương rồng Arizona Barrel Cactus lớn nhất ở
vùng sa mạc Bắc Mỹ, khá lạ
mắt với h́nh dạng và kích thước tựa trái dưa hấu với sắc hoa đỏ rực
điểm trên mỗi đầu ngọn “trái”.
Xương rồng Arizona Barrel Cactus của vùng sa mạc Bắc Mỹ
Dần tiến vào vùng đất Coronado National Forest.
Bất chợt. Nấp né sau những bụi xương rồng, một bộ dạng c̣m cơi tựa loài
Kangaroo với đôi tai dài, lớn vểnh đứng; miệng vẫn đang nhóp nhép vài
cọng cỏ. Giống thỏ hoang dă Antelope Jackrabbit to lớn gấp đôi giống
thỏ thông thường (cân nặng hơn 10 lbs) và tốc độ “điền kinh” nhanh đến
mức khó loài chó nào có thể đuổi kịp. Đặc điểm khác lạ với những giống
thỏ cùng loài; thỏ con khi mới sanh không trụi lũi lông lá, vừa khi mở
được mắt đă phải tất tả theo mẹ kiếm ăn.
Giống thỏ hoang dă Antelope Jackrabbit
Mấy cái ống kính lấp ló từ cửa sổ xe, loạt chuỗi bấm máy gịn giă tựa tràng liên thanh.
Dừng xe ở Proctor (lower
canyon).
Madera Canyon được bao bọc xung quanh bởi sa mạc;
gió nóng thổi từ sa mạc đến chân núi đem hơi nóng lên núi, khi lên cao
hơi nóng ở nhiệt độ thấp hơn tạo hơi nước và chuyển biến thành mây;
những đám mây nặng hạt đă đem mưa đến tạo nên sự xanh tươi của cây cỏ
vùng núi này.
Ban mai se sắt lạnh. Tôi đứng giữa cảnh hùng vĩ xanh ngắt của núi
rừng, một màu xanh đầy sức sống giữa sa mạc khô cằn. Đến nao ḷng để
thưởng thức vẻ đẹp lạ lùng của tạo hóa.
Hơn nửa dặm đường ṃn
của Proctor Trail, hai chúng tôi hy vọng sẽ t́m thấy giống gà tây Wild
Turkey ở dọc khe suối cạn. Những bước chân vừa tiến gần bỗng chấp chới
đàn bướm lượn vàng cả không gian, trông xa cứ ngỡ như đám lá vàng phủ
đầy mặt
đất. Lấp ló sau những rậm cây, hai tay săn ảnh kiên nhẫn quan sát.
…
Một giờ đồng hồ tẻ nhạt trôi qua. Thịt da rần đỏ bởi sự tấn công bền bỉ
của lũ kiến càng vùng núi. Và vẫn chưa một bóng… gà xuất hiện trong tầm
ngắm.
Diễn tiếp lộ tŕnh lên đến độ cao 5,400 ft. Upper canyon.
Từng đàn Mexican Jay túa bay cả b́a rừng
chợt khuấy động cả khoảng không gian tĩnh lặng sớm mai. Loài chim
Mexican Jay chỉ sống ở vùng Mễ Tây Cơ và một góc Arizona. Vùng núi này
với rất nhiều giống chim đẹp. Painted Redstart với sắc lông đỏ chót
nhưng vẫn chưa thể so sánh với loài chim Elegant Trogon - một loài chim
nhiệt đới sống ở vùng Nam/Trung Mỹ với sắc lông sặc sỡ tuyệt đẹp. Chim
sống ở độ cao từ 4000-6000 ft; cuối mùa xuân
thường lên vùng Arizona gần biên giới Mễ Tây Cơ để làm tổ dọc đường ṃn
ở những triền núi cao.
Thú xem chim trở thành một thú tiêu khiển hàng đầu ở Hoa Kỳ.
Dựa theo thống kê của U.S. Wildlife Service th́ hiện nay có hơn 50
triệu người tham dự thú vui lành mạnh này và con số này ngày càng gia
tăng. Những hội đoàn chim thú (Audubon Society) gồm nhiều hội viên tham
dự thường được tổ chức thành những tour đi xem chim/thú ở nhiều địa điểm
thiên nhiên khắp nơi nước Mỹ lẫn trên thế giới. Thời điểm nóng sốt của
phong trào săn ảnh wildlife, những tay săn ảnh thú hoang dă chuyên
nghiệp được trang bị “vũ khí hạng nặng” để đáp ứng thú đam mê săn ảnh kỳ
thú.
Ngốn vội vài miếng sandwich cùng niềm háo hức, hai chúng tôi loay
hoay
chuẩn bị hành trang cho một ngày dài đi núi (hiking). Trọng lượng vác
theo ngoài dụng cụ nhiếp ảnh cần thiết nên lương thực, nước uống cần hạn
chế tối đa để không phải khiêng vác nặng.
Mặt trời dần ló sau
những rặng núi. Một ngày nắng đẹp đầy hứng khởi. Hai chúng tôi dốc lực,
lỉnh kỉnh khiêng vác dụng cụ và men theo con đường ṃn lên đỉnh núi.
Vài dặm đường núi. Bất chợt. “co-ah…….., co-ahhhhhh”. Văng vẳng âm
thanh tựa tiếng kêu giận dữ của loài vịt. Hoành hoạch những đuổi bước
theo chuỗi âm thanh nổi từ những ngọn cây dọc đường ṃn. Hai vẻ mặt háo
hức khi nhận ra tiếng kêu của loài chim Elegant Trogon.
Và, ẩn hiện trong rừng cây lá, nổi bật sắc lông sặc sỡ tuyệt đẹp; màu xanh tươi xen lẫn cam rực rỡ và
một viền khoanh quanh cổ ngực của một chú chim Elegant Trogon, kích thước lớn cỡ loài chim bồ câu
Chim
vun vút từ cành sang cành và vụt biến sau rừng cây thưa. Elegant
Trogon, loài chim này đă thu hút hàng chục ngàn người xem chim (birders)
và những tay bird photographers đến vùng Đông Nam Arizona hằng năm.
Chim Elegant Trogon
Dù chỉ ngần ấy thôi, tôi vẫn luôn cảm nhận ư nghĩa của hạnh phúc trong từng hơi thở của cuộc sống; chẳng
phải ở sự giàu sang hay danh vọng nhưng chính là sự tĩnh lặng của tâm hồn…
Một giờ đồng hồ sau.
Dốc
núi chia hai ngă rẽ: đi thẳng là Carrie Nation Trail, bên trái ngă rẽ
là Old Baldy Trail; một bảng sign chú ư “pack it in - pack it out” (tạm
dịch: tự dọn nếu xả rác!) nhắc nhở khách đến không được xả rác trên núi.
Những bước chân phiêu lưu lần theo lối ṃn chạy giữa sườn núi. Những
hàng cây tăm tắp vươn thẳng nhưng tầm mắt vẫn bao quát quanh cảnh của
đỉnh núi lớn Mt. Wrightson chạy song song.
Lăng đăng những đám
mây trắng phủ quanh đỉnh núi. Madera Canyon là một trong những Sky
Islands của vùng núi Arizona hay với tên gọi “Đảo Mây”; bởi những ngọn
núi nằm riêng biệt giữa sa mạc, khi quan sát ở độ cao trên máy bay,
nhấp nhô những chóp núi mây phủ quanh trông tựa những ḥn đảo giữa
biển.
Những bước chân nao nức tiếp xúc với độ cao của đồi núi.
Vài đoạn dốc chồng chéo những nấc thang đá; hai nhà đi núi h́ hục leo
thang, cứ vài trăm bước lại dừng thở dốc.
Mặt trời lên cao. Bỏng rát da thịt. Từng vạt mồ hôi đầm đề lưng áo.
Sự mỏi mệt vẫn chẳng lấn lướt cảm xúc vui thú với thiên nhiên. Tiếng
chim hót ḥa lẫn âm thanh róc rách của khe suối chảy dọc triền núi. Tôi
dừng bước, điều ḥa nhịp thở. Chai nước lọc duy nhất mang theo chỉ vài
ngụm cầm chừng chẳng thỏa măn cơn khát đến khô cổ. Từng vốc nước suối
tinh khiết mát lạnh có tác dụng giảm thân nhiệt đến hiệu quả. Hai chúng
tôi gắng rút gọn khoảng cách để đến đỉnh núi
và kịp trở lại khi trời sẩm tối. Hiking là bộ môn giải trí lành mạnh,
và sau một ngày đốt năng lượng trên chặng đường lên/xuống núi; những cái
bao tử đă có thể thỏa măn một bữa buffet và chẳng hề mang cái cảm giác
ray rứt!
Một đoàn người xuống từ đỉnh núi, trên lưng lỉnh kỉnh những ba lô
nặng trĩu, được biết họ vừa kết thúc buổi cắm trại (camping) nhiều ngày
trên đỉnh núi.
Chút suy ngẫm về cái restroom duy nhất nằm chơ vơ
trên đỉnh núi, dù rằng sự bài tiết qua tuyến mồ hôi cũng đă giảm bớt sự
ức chế của những cái bọng đái; Andy cợt đùa: “E ngại chi giữa mênh mông
rừng núi và chỉ với sự chứng kiến của mấy con chim, thú!”
Bốn giờ đồng hồ sau. Địa điểm Josephine Saddle ở độ cao 7250ft; đây là
điểm tụ ngă tư của những đường ṃn và phải gấp đôi đoạn đường mới đến đỉnh núi.
Tôi
tần ngần trước bia mộ đắp đá chồng chất, trơ trọi giữa đỉnh núi. Câu
chuyện thương tâm về cái chết của 3 hướng đạo viên ở tuổi 12, 13, 16 đă
xảy ra giữa tháng 11, 1958 khi cả ba bị lạc hướng và chạm mặt với cơn
băo tuyết trút đổ hơn 3 ft xuống dăy núi Santa Ritas (kể cả Jack
Mountain), lấp hẳn đường xuống núi.
Câu chuyện dẫu xưa, vẫn man mác trong tôi nỗi thương cảm ngậm ngùi…
Loay
hoay chụp ảnh lưu niệm về “thành tích” đi núi cạnh mấy cái bảng hướng
dẫn. Ngồi giải lao trên khúc cây cổ thụ gẫy. Miếng sandwich và nửa trái
táo c̣n lại cũng chỉ lưng lửng cái bao tử vẫn cảm giác trống rỗng sau
vài giờ đi núi. Giữa
đỉnh núi, dẫu chỉ vị ngọt của miếng táo vẫn cảm giác ngon đến lạ lùng,
chút tiếc rẻ nguyên bịch táo c̣n lăn lóc ở góc xe!
Nắng gay gắt. Bỗng, từng đợt mây giăng xám xịt cả núi rừng. Hăm he một cơn giông lớn.
Ở độ cao khá tương đối vẫn chưa t́m thấy tổ chim Elegant Trogon. Chúng tôi quyết định quay trở lại trước khi trời sẩm tối.
Coyote ở vùng núi Arizona
Xuống núi.
Khoảng cách rút ngắn, đôi chân vẫn phải làm việc “overtime” để ḱm giữ
trọng lượng cơ thể theo trớn đẩy của độ dốc. Mắt hoa, tai ù. Cảm giác
căng
thẳng và cạn kiệt năng lực. Cú trợt ngă đến ê ẩm ở một đoạn dốc khá
trơn trượt, bỗng mập mờ một “vật ảnh” đang di chuyển sát triền núi. Phản
xạ nghề nghiệp, cái ống kính tele thoắt đă hăm hở dơi theo từng chuyển
động của con chồn. Coyote thường thấy ở vùng sa mạc và vùng núi Arizona,
rất dễ lầm tưởng v́ kích thước lớn hơn chó và nhỏ hơn chó sói.
Về đến chân núi. Cơn giông xối xả chụp phủ cả núi rừng. Hơn 8 giờ
đồng hồ lên/xuống núi. Tôi dần cảm nhận thú đau… nhức cả tứ chi.
Xe
tấp vội bên cánh rừng. Từng thân cây lớn chi chít những lỗ nhỏ. Bùm bụp
âm thanh tựa tiếng gơ trên mảng tường gỗ cùng với sự xuất hiện của vô
số con chim gơ kiến sắc lông đen nhánh, lốm đốm vàng mơ và nhúm “tóc đỏ”
chót nổi bật trên đỉnh đầu. Đây là kho dự trữ lương thực của loài chim
gơ kiến Acorn Woodpecker.
Chim gơ kiến Acorn Woodpecker
Vùng núi Madera Canyon có đến 20 loại chim hummingbirds;
trong số này, có nhiều loại sống ở Trung và Nam Mỹ và xuất hiện ở vùng
Đông Nam tiểu bang Arizona vào mùa hè (mùa lạnh ở Nam Bán Cầu). Loài
chim ruồi tí hon với sắc lông sặc sỡ, kích thước tương đương ngón tay và
luôn bận rộn kiếm ăn để
đủ năng lượng quạt cánh với 50 lần/giây.
Andy vẫn thao thao về
chức năng của mấy loài chim, thú. Những cánh chim tí hon tuyệt đẹp-mục
tiêu di động đang cuốn hút sự chú tâm của phó nḥm tôi.
Lẫn vào ḍng xe trên xa lộ I-10; diễn tiếp lộ tŕnh đến Chiricahua Mountains.
Bốn giờ chiều. Biên giới New Mexico. Vẻ hoang dă của từng chùm hoa
Yucca trắng muốt chợt liên tưởng đến cuộc phiêu lưu của chúng tôi giữa
Sa Mạc Trắng, New Mexico; khoảnh khắc lặng người chiêm ngưỡng vẻ đẹp
hoang dại, tiềm ẩn sức sống mănh liệt của Yucca giữa sa mạc khô cằn.
Đoạn rẽ qua xa lộ 80. Núi rừng bát ngát mở rộng trong tầm mắt. Cảm
giác mỏi mệt vẫn chưa lấn át sự hăm hở săn t́m loài chim Elegant Trogon
của những tay săn ảnh.
Chiếc xe bất
ngờ giảm tốc độ, tấp vội bên lề đất.
Lấp ló trong bụi rậm, nhấp
nhô chỏm lông đầu cong vút tuyệt đẹp của một chú chim cút Scaled Quail
trống lớn tựa bồ câu; vùng lông ngực xếp lớp tựa những lớp vẩy cá.
Hai
tay săn ảnh xấp xoài giữa lớp đất đá. Nín thở chờ đợi. Và, dần xuất
hiện những chú cút tí hon tựa bầy gà con líu chíu theo bước chàng Scaled
Quail trống. Khoảnh khắc thú vị, mơ ước của những tay săn ảnh động vật
hoang dă. Săn ảnh chim cút vô cùng nhọc công bởi giống chim này thường
lẩn sống trong bụi rậm ở những vùng đất hoang khô cằn.
Ở loài vật riêng với chim chóc, những chàng chim trống mang lợi thế
về vẻ đẹp ngoại h́nh để thu hút những nàng chim mái khác; âu cũng là một
nghịch lư của thiên nhiên v́
giống mái bao giờ cũng lănh nhận phần thiệt tḥi hơn chưa kể mỗi lần
sinh nở trên dưới cả tá trứng!
Cút trống nuôi con Hai tay săn ảnh mồ hôi rin rít trong từng lớp áo, mũ.
Sự tương tác thân thể giữa lớp đất đá gợi cảm giác bỏng rát. Loạt h́nh
ảnh “bonus” hiếm hoi về những chú cút con ngộ nghĩnh tạm thỏa măn mấy
cái ống kính.
Mấy bịch bánh ḿ, trái cây sấy khô dần vơi theo chiều dài khoảng cách 2 tiếng lái xe từ Madera Canyon đến Chiricahua. Đến Coronado National Forest. Sừng sững những vách núi đỏ xen lẫn sắc rêu phong. Hai
dặm đường ṃn. Róc rách tiếng nước suối. Những bước chân lầy lội trên khoảng đất ẩm ướt. Lũ chim rừng inh ỏi trên những ngọn cây nhạt nắng. Cánh rừng thưa vẫn thiếu vắng bóng dáng những cánh chim Elegant Trogon.
Chiều chập choạng. Chiếc xe thẳng hướng ra xa lộ… ĐMH |
Nhiếp ảnh gia Đặng Mỹ Hạnh trên đường tác nghiệp
Ngày một
Vùng thung lũng Klamath Basin thuộc miền Trung Nam của tiểu bang Oregon,
nơi trú ẩn quanh năm của đại bàng Bald Eagle - loài chim to lớn biểu
tượng của nước Mỹ (national bird) đă khơi dậy sự háo hức đầy thú vị với
hành tŕnh săn ảnh đại bàng Bald Eagle của hai chúng tôi.
Phong cảnh vùng Klamath Basin,
Oregon
Giữa khuya. Chiếc xe đơn độc
trên xa lộ dài hun hút bóng đêm. Bản nhạc “Hotel California” của nhóm
Eagles (một cái tên rất hợp đề tài!) ở đoạn cao trào guitar solo chợt
thức tỉnh cơn buồn ngủ len lỏi. Vài bịch khô ḅ đồng hành nhấp nháp suốt
chiều dài xa lộ cũng vơi bớt sầu bi, lẻ loi của hai lữ khách đường xa…
Rạng sáng. Xe băng qua ranh giới Siskiyou county xuyên giữa cảnh núi
rừng mênh mông. Dọc đoạn đường núi rải rác vài bảng chú ư xem chừng gấu
băng qua đường.
Mặt trời dần ló ở đường chân trời. Phản chiếu lên những lớp tuyết phủ trắng xóa đỉnh núi Mount Shasta.
Xe chạy xuyên đoạn đường núi xanh rờn những rặng thông ở độ cao 3000 feet và rẽ exit vào xa lộ
nhỏ.
Thị trấn Weed đ́u hiu, hoang vu như tên gọi “Cỏ dại”! Rải
rác những căn nhà nằm lẻ loi giữa đồi núi thiên nhiên. Lăng đăng dăi
sương mù len lỏi giữa những rặng thông, lơ phơ trong gió tựa những vạt
lụa mỏng.
Hai vẻ mặt đầy háo hức, cảm giác gần ở đoạn kết của lộ tŕnh dài hơn
12 tiếng trên xa lộ. Một ngày Mùa Đông ở Oregon. Nắng vàng óng. Trong
vắt. Ánh sáng hoàn hảo hơn hẳn sự mong đợi của hai tay săn ảnh.
Đến
Trung tâm hướng dẫn, chúng tôi dành khoảng thời gian ngắn xem đoạn
video để t́m hiểu thêm về hệ sinh thái vùng này. Thung lũng Klamath
Basin gồm 6 khu vực bảo tồn thiên nhiên. Đây là điểm ngừng quan trọng
của 263 loài chim dọc theo đường bay ven biển Tây, để tiếp tục chặng
đường bay dài hơn 5000 dặm từ
những vùng ấm về tới Bắc Cực và Canada. Vùng thung lũng này có dân số
đại bàng nhiều nhất trong 48 tiểu bang nước Mỹ (chưa kể Alaska và
Hawaii).
Con đường đất lầy lội vào khu vực Klamath Basin, dọc
ngang những con lạch len lỏi khắp vùng. Khu vực này được phép săn bắn
ngỗng vịt và cả loài chim trĩ Ring-necked Pheasant.
Xe bất chợt dừng giữa đồng hoang tĩnh lặng. Một con ó đuôi đỏ
Red-tailed Hawk đậu trên bảng nhỏ bên vệ đường. Hai nhiếp ảnh gia (NAG)
bất ngờ v́ rất hiếm có được cơ hội thấy loài ó này trong khoảng cách
gần, to lớn như một con gà trống. Cặp mắt chim ó dáo dác, chiếc đầu xoay
180 độ.
Thoáng xa. Lờ mờ dáng đứng vài con đại bàng đầu trắng Bald Eagle giữa mặt hồ đông đặc. Chúng tôi khá thất vọng v́ khoảng
cách quá xa ngoài tầm ngắm.
Kỹ thuật nhiếp ảnh “panning & tracking” trong một pha “action”
Mé hồ, trắng xóa từng đàn ngỗng Snow Geese, thiên nga Tundra Swans tụm bầy.
Những
tiếng kêu vỡ oang, đùng đục rơi vào khoảng không của mặt phẳng băng đá.
Một đàn ngỗng Canada Geese vừa đáp cánh sau chuyến bay di cư dài.
Vào mùa Thu và Xuân, những ao hồ khu vực này hỗn loạn âm thanh của
trên 1 triệu con ngỗng và thiên nga, tạm ngừng để “tiếp tế nhiên liệu”
giữa chuyến bay xuyên lục địa.
Một sự khác biệt rơ rệt đáng kể
là những
chuyến bay di cư (migration) của hai nhóm: loài chim ăn thịt (raptors)
và ngỗng, thiên nga. Các loài raptors như chim ưng, ó, diều hâu, kên
kên, đại bàng lệ thuộc vào những cột không khí nóng thoát lên từ mặt đất
để lượn trong không trung, và không cần phải vỗ cánh nhiều để tiết kiệm
sức nên phải bay vào ban ngày. Các loài ngỗng, thiên nga v́ có trọng
lượng khá nặng (20-30 pounds) nên phải luôn đập cánh bay nhanh để khỏi
bị “rớt”. Chuyến bay phải được thực hành vào ban đêm để giảm độ nóng của
đôi cánh và chia ra nhiều chặng nghỉ dọc đường để ăn.
Mặt trời lên cao. Nhiệt độ dần ấm ở 39 độ F. Hai tay săn ảnh ḷng
ṿng vài giờ quanh khu vực Klamath Basin. NAG Andy Nguyễn vẻ chú tâm,
loay hoay với tấm bản đồ hướng dẫn.
Xe tấp vội
bên lề. Nhấp nhỏm dáng đứng của con chim ó Rough-legged Hawk trên mô
đất gồ ghề. Loài ó đầu trắng, bộ lông phủ kín đến ngón chân để thích
nghi với môi trường lạnh; khá hiếm thấy v́ thường sống ở ṿng Bắc Cực
(Arctic Circle), và chỉ di cư về Mỹ trong những tháng Mùa Đông.
Rough-legged Hawk - loài chim ó sống ở ṿng Bắc cực
Một chiếc pick-up truck chạy rề rà trên con đường đất.
Người quản trị khu vực ân cần hỏi han nếu chúng tôi cần thêm hướng dẫn
và giải thích về những thay đổi bất thường của thời tiết trong vùng này.
Những ngày
Mùa Đông trong năm nhiệt độ dưới 0 độ; khoảng 20 độ thấp hơn hàng năm;
giá rét liên tục suốt hơn tháng trời. Những ao hồ vùng này đều đóng
băng, vịt ngỗng không c̣n môi trường sinh sống. Bald Eagles thiếu mất
nguồn thức ăn này nên t́m hướng bay về miền ấm hơn để kiếm mồi. Thường
mỗi năm số lượng Bald Eagle đến vùng này gần cả ngàn con; di cư từ phía
Bắc Canada. Sự đổi thay bất thường của thời tiết có ảnh hưởng đáng kể
đến sự di cư của những loài chim. Thường những loài chim di cư dựa theo
mùa ấm/lạnh và t́m đến chỗ có nhiều thức ăn và những yếu tố để sinh sống
như nước, môi trường, nơi trú ẩn.
Người quản trị tỉ mỉ đánh dấu trên bản đồ những địa điểm khác trong vùng thung lũng, ở vài chỗ hồ tan băng, vịt
ngỗng đến sinh sống và đại bàng sẽ t́m đến kiếm mồi.
Xe rẽ vào khu vực Tule Lake. Ṿng tour 10 dặm trên con đường đất lầy lội, ngoằn ngoèo.
Dừng
xe mé hồ. Lập cập trước làn gió đông se sắt. Tôi hướng tầm mắt vào
khoảng trắng mênh mông băng giá. Xao xác tiếng kêu của bầy ngỗng vịt man
mác khoảng không gian chiều nhợt nhạt. Vẳng xa, tiếng ́ ầm của những
mảng băng đá vỡ bung trên mặt hồ.
…Vẫn tăm vắng bóng dáng của những cánh chim đại bàng.
Chiều đông quạnh quẽ. Ră rượi xen lẫn thất vọng của một ngày dài săn ảnh.
Xe cạn xăng. Lui hui đổ cạn b́nh xăng dự trữ. Hai NAG quyết định trở lại ngày hôm sau để tiếp nối đoạn trường săn ảnh.
Một cánh vịt trời vút lên từ con lạch bay song song cùng
chiếc xe trên con đường lộ. Bất ngờ đầy thú vị với “cuộc đua” tốc độ giới hạn 60 dặm/giờ vẫn không vượt qua con vịt trời.
Ngày
xuống dần. Hai lữ khách lần đường vào khu downtown t́m trạm xăng và nhà
trọ. Rờn rợn cảm giác của một thị trấn bỏ hoang như “ghost town”. Hiếm
hoi giữa phố vài căn motel xập xệ, tồi tàn tạo cảm giác thiếu an ninh.
Đàn ngỗng Canada Geese đáp cánh sau chuyến bay di cư dài Dừng
xe ở trạm nghỉ cách downtown khoảng 10 dặm và may mắn t́m được chỗ nghỉ
khá an toàn so với khu nhà trọ v́ luôn có xe tuần giữ an
ninh. Khu vực mới được xây cất nên rất tiện nghi, sạch sẽ với từng
pḥng vệ sinh restroom riêng biệt có sưởi và nước nóng. Vùng này có được
tín hiệu từ mạng lưới internet (wireless hotspot). Tôi theo dơi tin dự
báo thời tiết của ngày tới, trả lời email của một số độc giả.
Nhiệt độ về khuya xuống 21 độ F. Chiếc xe nổ máy liên tục giữ độ ấm.
Trên chiếc đệm xe. Hai cái thế nằm co quắp sau một ngày dài mỏi mệt. Tôi
chợt nghĩ về khoảng lặng trong cuộc sống. Khoảnh khắc lặng người trước
những cảnh đẹp và bức xúc, háo hức săn t́m những h́nh ảnh ngoạn mục về
chim thú hoang dă.
Qua những chuyến đi thực tế, tôi học hỏi rất nhiều kiến thức hữu ích
về hệ sinh thái trong môi trường thiên nhiên phong phú. Vẻ đẹp
của thiên nhiên như một kho tàng bí ẩn; đầy sức lôi cuốn. Mối tương
quan giữa nhiếp ảnh và thiên nhiên đă duy tŕ niềm đam mê nghề nghiệp.
Khi khám phá khía cạnh này, tôi tự dấn thân vào thử thách, gian nan
trong những cuộc hành tŕnh săn ảnh. Và cảm nhận, trân quư vẻ đẹp đầy ư
nghĩa của cuộc sống.
Đêm đông. Chập chờn giấc ngủ. Xập x́nh những chuyến tàu trên mặt đường rầy. Dồn dập từng hồi c̣i đêm…. ĐMH (Xem tiếp Kỳ 2)
|
Đặng Mỹ Hạnh
Ngày hai
Tinh mơ. Chiếc xe đơn độc thâu đêm trong parking của khu trạm nghỉ.
Vật vờ giữa những âm thanh dồn dập của đoàn tàu xập x́nh trên ga
nhỏ. Giấc ngủ ngắn vẫn dật dờ cảm giác ră rượi trên từng tế bào cơ thể.
Nhiệt độ 21 độ F. Tôi lóng cóng, dọ dẫm vào nhà vệ sinh trong giá lạnh tinh sương.
Trời nhá nhem. Chiếc xe rời khỏi parking tiến ra xa lộ, khoảng hơn
nửa dặm rẽ vào con đường đất đỏ đến Thung Lũng Gấu (Bear Vallley).
Vội vă bữa điểm tâm, uể oải mấy cuốn
nem nướng “đông lạnh” lừng khừng trôi xuống thực quản.
Rải rác
hàng xe đậu dọc, vài người đứng lóng ngóng về hướng núi. Khu ẩn trú Bear
Valley nằm ở sườn núi phía Đông Bắc, được thiết lập vào năm 1978 để bảo
vệ chỗ ngủ qua đêm cho đại bàng Bald Eagle vào mùa đông. Trong những
năm gần đây đă có đến 300 chim đại bàng trú ẩn qua đêm ở vùng này.
Cơ quan quản lư thiên nhiên rất quan tâm về sự sinh tồn loài chim
đại bàng Bald Eagle; v́ số đại bàng ngày càng hiếm đi ở vài tiểu bang
nước Mỹ và có nguy cơ đe dọa tuyệt chủng. Những khu rừng vùng này đă lâu
năm không bị cháy, họ lo ngại sẽ có nguy cơ cháy rừng và dẫn đến thiệt
hại cho chỗ ngủ của đại bàng. Sự giải quyết tạm thời là đốn bớt cây rừng
khô, cũ và
đốt rừng dưới sự tính toán và kiểm soát. Khu vực này không mở cửa để
đón khách, chỉ có thể quan sát từ bên ngoài.
Mặt trời nấp né sau
những rặng núi. Thoáng xa, lờ mờ những sải cánh đại bàng nhấp nhem trong
khoảng sáng, tối của bóng núi. Dần rải rác túa bay từ hướng núi phía
Tây Hamaker Mountain.
Hai chúng tôi háo hức lần đến những địa điểm của bầy đại bàng sau khi rời tổ đến kiếm mồi.
Xe tiến sâu vào khu vực thung lũng Klamath Basin; ḷng ṿng hơn 10 dặm trên con đường đất. Bất ngờ thắng gấp!
Hửng
trong màu nắng vàng óng. Chiếc đầu trắng với mỏ vàng quặp nổi bật trên
sắc lông nâu đen. Bên rănh mương lơ thơ những vạt bông cỏ dại. Điềm tĩnh
dáng đứng của một con đại bàng Bald Eagle. Vẻ oai phong của con
đại bàng giữa thiên nhiên hoang dă đẹp đến nao ḷng!
Vẻ oai phong của đại bàng Bald Eagle giữa thiên nhiên hoang dă
Trong tầm ngắm của hai tay săn ảnh; Bald Eagle trông to lớn như một con gà tây.
Lấp ló những ống kính háo hức hướng từ cửa sổ xe.
Gió bần bật. Se sắt. Mấy cái quai hàm khua lập cập!
Con đại bàng thoắt chợt xoay 180 độ, hướng về những ống kính rồi bất
ngờ vụt cánh trước vẻ ủ dột chảy dài thất vọng trên hai vẻ mặt phờ
phạc.
Chiếc xe rề rà. Lạo xạo tiếng đá sỏi trên con đường đất ngoằn ngoèo.
Mấy cặp mắt láo liên quan sát cảnh vật xung quanh. Nháo nhác từng
đàn vịt, túa bay vừa khi tiếng động cơ xe tiến gần mé con rạch. Loài
ngỗng vịt vùng Klamath Basin bị săn bắn nên rất nhạy cảm và nhát sợ
người.
Bất chợt. Xe tăng tốc độ trên con đường đất. Hào hứng trong một pha
“rượt đuổi” theo hai con đại bàng đang sải đáp ở những rặng cây thoáng
xa.
Giảm tốc độ. Hai cái cổ ngóng lên ngọn cây cao. Trố mắt thú vị.
Rải rác từng bầy đại bàng đậu trên những hàng cây trụi lá dọc theo con rạch.
Hai tay săn ảnh rời xe, háo hức, kiên nhẫn quan sát.
Sớm đông. Nắng vàng óng. Mấy con đại bàng cong cổ rỉa lông trên nhánh cây trơ trụi.
Lù đù dáng đứng của vài con đại bàng với mảng lông đầu nâu đen
(juvenile); sau 5 năm đến giai đoạn trưởng thành, lông đầu sẽ đổi trắng như bộ lông tiêu biểu của những con Bald Eagle.
Thoáng
chốc,tiếng phành phạch sải cánh của những con đại bàng chuyền từ cành
sang cành. Những bước chân sục sạo trên đám cỏ lau đẫm sương tuyết; đôi
vớ dưới chân tôi sủng ướt, dần cảm giác sự tê buốt đôi bàn chân; mấy
ngón tay cóng lạnh dưới làn gió đông se sắt.
Đại bàng trong tư thế tấn công
Hai cái cổ mỏi nhừ sau vài giờ lóng ngóng lên mấy ngọn cây cao.
Dọc lui nhẩm đếm có khoảng hơn 30 con Bald Eagle.
Vào giữa tháng Hai mỗi năm, địa điểm này tấp nập hàng ngàn du khách đến
tham dự “Đại Hội Đại Bàng”(Bald Eagle Conference) ở Klamath Falls,
Oregon. Thời điểm này là lúc tập trung số đại bàng nhiều nhất trong năm,
có khi lên đến cả ngàn con.
Không một pha “action” xảy ra suốt vài giờ đồng hồ. Bầy đại bàng
lừng khừng. Dường như chưa nhắm được mục tiêu; dù ở thế thụ động để tiết
kiệm năng lượng cần thiết cho sự săn mồi nhưng những cặp mắt láo liên
đảo quanh, xoay đầu liên tục.
Bald Eagle sống quanh năm ở vùng thung lũng Klamath và thường lựa
chọn những rừng gỗ quanh thung lũng để xây tổ vào xuân và chỗ ngủ mùa
đông. Thức ăn chủ yếu là cá vào mùa Xuân và Thu. Những tháng mùa đông
c̣n lại đại bàng săn t́m vịt ngỗng
hoặc những loài chim lội nước bị chết bởi nhửng nguyên nhân tự nhiên
như bị thương, bị săn bắn hoặc tai nạn, bệnh tật, và dịch tả; đây là
nguồn cung cấp thức ăn dễ dàng của đại bàng; thường Bald Eagle kiếm
những con vịt ngỗng bị thương hoặc yếu để săn.
Trên thế giới có đến 64 loài đại bàng. Bald Eagle “powerful” dũng
mănh nhất trên trái đất có tên là Harpy Eagle đă bị diệt chủng gần hết;
sống ở khu rừng xứ Guyana, Nam Mỹ.
Đại bàng Harpy Eagle to lớn
thường săn bắt khỉ, vượn và một số loài két ở khu rừng này. Những người
thổ dân Indians có nghề săn bắt những loài két ở vùng này và bán với giá
chỉ $2/con vào thời điểm ấy; để bảo vệ “nguồn thu nhập”, họ đă săn giết
đại bàng Harpy Eagle để lấy thịt và lông.
Những tài liệu thu thập về giống đại bàng hiếm quư Harpy Eagle
do hai nhà làm phim thiên nhiên, nhiếp ảnh gia người Mỹ Neil Rettig và
Kim Hayes thực hiện đă được nhiều giải thưởng Emmy về phim tư liệu thiên
nhiên. Họ đă trải qua cuộc hành tŕnh đầy khổ nhọc, lặn lội vào rừng
sâu hiểm nguy và sống nhiều ngày trên căn cḥi cây cách mặt đất hơn 100
feet và mặc những trang phục dày để tránh bị Bald Eagle tấn công trong
khi thực hiện những thước phim tư liệu và ghi nhận những h́nh ảnh về
loài đại bàng hiếm quư Harpy Eagle.
Mặt trời lên cao. Vành vạnh đỏ. Răng rắc những âm thanh rạn nứt, vỡ bung của những tảng băng đá trên mặt hồ hiu quạnh.
Thoáng
chốc,tiếng phành phạch sải cánh của những con đại bàng chuyền từ cành
sang cành.
Cóng lạnh. Tôi tạm giải lao bất thường. Máy sưởi xe mở hết tốc lực.
Nhiếp ảnh gia Andy Nguyễn vẫn “kiên cường” với ống kính bazooka dềnh
dàng giữa cái lạnh se sắt.
Dần xuất hiện vài tay săn ảnh chuyên
nghiệp, trang phục lùm xùm như dân bắc cực “Eskimo”. Một người nhiếp ảnh
gia địa phương sôi nổi kể với chúng tôi về loạt h́nh ảnh “action” ngoạn
mục ông đă ghi nhận được một ngày trước; diễn ra giữa 2 con đại bàng và
2 con ó giành mồi, cùng rượt đuổi vần vũ trên nền trời. Và rồi gật gù,
hỉ hả rằng với cú shot “tuyệt vời” ấy dù rằng có… “đai” cũng rất măn
nguyện!
Dù với những trang bị dụng cụ nhiếp ảnh chuyên nghiệp; ống kính tele
“ṇng đại bác” tổ chảng; ống nḥm… chim thú trông dữ dội cùng
phục sức rằn ri hệt “biệt kích quân”; nhưng những tay săn ảnh Wildlife
chuyên nghiệp vẫn luôn giới hạn về khoảng cách bởi động vật hoang dă rất
nhạy cảm với sự có mặt của con người.
Chiều xuống dần. Hai tay
săn ảnh hối hả t́m đường đến địa điểm khác. Từ ranh giới
Oregon/California rẽ vào Indian Tom Lake Rd ở ngă ba, khoảng 1.3 dặm,
quẹo trái vào đường Sheepy Creek Rd ngoằn ngoèo 6.4 dặm, quẹo trái ở góc
đường Dorris Brownell Rd; men theo đường ṿng khoảng 2.7 dặm và hàng
loạt cua quẹo đến chóng mặt trên con đường đất quanh co rất dễ lạc
hướng. Hơn nửa tiếng đồng hồ sau chúng tôi đă t́m đến chỗ ngủ của đại
bàng. Bald Eagles sau một ngày kiếm ăn trở về nơi ngủ lúc mặt trời lặn.
Bald Eagle biểu tượng hùng mạnh của Mỹ Quốc qua ống kính của NAG Andy Nguyễn
Mặc dù đại bàng cần nơi cung cấp nguồn thức ăn nhưng một chỗ trú ẩn qua đêm cũng đóng vai tṛ rất quan trọng.
Có 5 địa điểm ngủ của Bald Eagle ở quanh vùng thung lũng này dựa trên
những yếu tố chung. Những chỗ nghỉ này đều gần nguồn thức ăn (các ao
hồ); không bị con người quấy rầy; có những cành cây lớn và cứng đủ để
chịu đựng sức nặng của nhiều con đại bàng; có ít cành để đáp và bay đi
dễ dàng; nằm ở phía Đông Bắc của sườn núi. Khi được tránh gió đại bàng
đỡ bị lạnh nên cần ít
thức ăn hơn để duy tŕ nhiệt độ cơ thể. Những đợt gió đông se
sắt thổi dạt những tán cây rừng. Bầy đại bàng lui cui t́m chỗ ngủ, rũ
cánh trong giá lạnh. Tôi ngóng mắt lên những ngọn cây cao, chợt thương
cảm với bản năng sinh tồn của loài động vật.
Sẽ c̣n bao nhiêu loài vật tồn tại trên trái đất này khi giá trị
thiên nhiên dần mất đi. Và con người, với những vật vă trong cuộc sống
sẽ chẳng c̣n tâm hồn để thưởng thức thiên nhiên. Chiều nhợt nhạt.
Con đường đất nhồi dập hai cơ thể mỏi nhừ suốt đoạn đường trở ra. Một
ngày dài đong đầy cảm xúc với những phút giây thú vị của cuộc sống.
Bóng tối dần loang giữa đồng hoang hiu quạnh. Lẻ loi quệt sáng của ánh đèn xe trên con đường đất gập ghềnh.
ĐMH ( nguồn Trẻ online ) |
Mùa đông đi về hướng Bắc - Kỳ 1
Đặng Mỹ Hạnh
Để
săn ảnh loài chim Cú Tuyết, hai nhiếp ảnh gia Đặng Mỹ Hạnh và Andy
Nguyễn đă thực hiện một cuộc hành tŕnh từ Florida lái xe băng qua nhiều
tiểu bang, đi và về hơn bốn ngàn bốn trăm miles để đến miền Bắc Canada
nơi mà thường xuyên những ngày dưới 0 độ F. Mời quư độc giả theo chân
hai nhiếp ảnh gia này trong loạt bài Mùa Đông Đi Vê Hướng Bắc.
Tác giả trước Phở 24 của một góc phố Việt.
Khởi hành từ thành phố Orlando, đi dọc theo chuỗi xa lộ I-75. Tôi
luôn mang cảm giác nôn nao và hồi hộp mỗi khi bắt đầu chuyến đi xa lâu
ngày. Xe rẻ ra hướng xa lộ, tôi nhủ thầm: "See you in two weeks,
Orlando!"
Là một US citizen, tôi có thể tự do lái xe đi bất cứ nơi nào trên toàn
lănh thổ Hoa Kỳ mà không chút hoang mang bị tŕnh xét giấy tờ. Bằng lái
cũng chính là cái thẻ căn cước. Đời sống đă cho chúng tôi một nghề
nghiệp ḿnh yêu thích, đó là làm một nhà
nhiếp ảnh, và luôn được rong ruổi khắp đó đây. Travel, với riêng tôi
như được đắm ch́m trong những cơn mơ đẹp về cảnh quan, thành phố, con
người và những địa danh đă khiến tôi luôn tự lầm thầm mê mẩn, và rồi
hoạch định để biến giấc mơ của riêng tôi thành hiện thực.
Sơ đồ hệ thống xa lộ chằng chịt của thành phố Atlanta. Sống ở Florida
– một trung tâm du lịch
của những "snowbirds" đến từ khắp thế giới (danh từ nói về những người
dân vùng lạnh phía Bắc đến Florida để tránh lạnh). Tôi vẫn luôn tự hỏi
về một cuộc phiêu lưu trái ngược về hướng Bắc, không biết ḿnh sẽ được
gọi là ǵ đây? Và, để thực hiện một cuộc hành tŕnh dài ngày bằng động
cơ bốn bánh, tôi luôn cẩn trọng và tỉ mỉ với checklist:
- quần áo lạnh - thermal underwear, mũ len, bao tay - giày boot lội tuyết - dụng cụ nhiếp ảnh - laptop - passport - er, đèn pin, dao, emergency kit,
- bản đồ - b́nh xăng dự trữ - đồ ăn vặt, trái cây - nước uống, giải khát - khăn lau mặt (lúc buồn ngủ) - đồ vệ sinh cá nhân - kiếng
mát - CD nhạc - mền, gối Sau hơn 3 giờ đồng hồ trên xa lộ,
xe tiến gần ranh giới tiểu bang Georgia; thị giác dần quen thuộc với
cảnh vật dọc đường. Tôi chợt nhiên nghe hồn ḿnh heo hắt khi lặng ngắm
những cánh đồng hoang xơ xác, từng hàng cây trơ trụi đứng thinh lặng
giữa tiết đông lạnh lẽo. Nền trời như một tấm canvas vô h́nh, loang lổ
từng mảng mây xám màu đậm nhạt.
7 pm. Qua hơn 5 tiếng đồng hồ bó rọ trên ghế ngồi, chúng tôi tấp vào
một trạm xăng heo hút, Đổ đầy b́nh xăng giá $3.39/gallon, thêm một b́nh
"sơ cua". Đồng hành Andy tính toán lịch tŕnh nghỉ ngơi theo dung tích
của b́nh chứa xăng; xe Chevy Impala, chứa 17 gallons và theo kinh nghiệm
thực tế th́ có thể chạy được 450 dặm, tốc độ trung b́nh trên xa lộ 70
dặm/giờ, nên mỗi 6 tiếng phải dừng lại đổ xăng.
Mướn xe ở Dollar Rent-a-Car giá cả phải chăng.
Trong những chuyến đi xa,
mướn xe ở các dịch vụ luôn giảm bớt sự lo lắng về giới hạn khoảng cách
lái xe (unlimited mileage), không bận tâm đến vấn đề xăng nhớt, bảo tŕ
và có thể lựa chọn các loại xe theo ư muốn. Điều thú vị là trong những
cuộc hành tŕnh dài ngày, chúng tôi luôn hào hứng để được "thử" qua
nhiều model "xế hộp" đời mới trên thị trường xe. Andy luôn đắn đo với sự
lựa chọn loại
xe để tiết kiệm xăng nhớt. Chiếc 2012 Chevy Impala, "full-size", đỡ hao
xăng, động cơ êm ái, rộng răi chỗ chứa hành lư và ghế ngồi thoải mái
cho hai người, đă từng chạy xuyên bang với loại xe này nên chúng tôi khá
hài ḷng với giá cả vừa túi tiền $400/2 tuần lễ của dịch vụ Dollar
Rent-a-Car.
Thời buổi kinh tế eo xèo, du lịch bằng xe khá phát triển. Qua thống
kê của Câu Lạc Bộ Giao Thông Hoa Kỳ, tôi được biết chỉ trong mùa Lễ Tạ
Ơn năm 2011, số người lái xe xuyên bang đă gia tăng khoảng 60% so với
những năm trước.
“Tài xế” Andy Nguyễn trên
xa lộ I-75.
Ngao du tự do trên chiếc xe con,
tôi luôn mang cảm giác tự nhiên thoải mái trong bộ pajama dẫu có nhăn
nhầu và mặc nhiên thưởng thức những món ḅ khô, gỏi cuốn, xôi chè. Lúc
hứng chí th́ hồn nhiên gào hát theo một ca khúc yêu thích. Thức ăn vặt
và đồ đạc mang theo chẳng hề phải dè dặt về trọng lượng, chưa kể đến dàn
đồ nghề nhiếp ảnh luôn chiếm đa số diện tích trên xe. Thời tiết lạnh,
dù nhu cầu của hệ bài tiết có cấp thúc cũng chẳng mấy khó khăn để t́m
một WC dọc đường.
Thành
phố Atlanta về đêm.
Đến Atlanta đă gần giữa khuya.
Nhiệt độ 64 F, mưa đêm lất phất lạnh. Mất cả giờ căng thẳng lái xe ṿng
vèo trong một hệ thống xa lộ chằng chịt, dọc ngang, xéo xiên, cong ṿng
(rất dễ gây nhầm lẫn cho khách phương xa), hai chúng tôi cũng đă mày ṃ
đến được một phố Việt ở đông bắc Atlanta.
Càng về đêm, quán xá càng im ĺm. Đôi lữ khách vẫn lang thang giữa
khu phố lạ và chợt vui mừng khi bất ngờ kiếm được một "lữ quán về đêm"
trên đại lộ Buford Highway.
Phở 24 - cái tên đă gợi đến sự liên
quan của opening hours. Bước vào quán, tôi nh́n cái bảng chữ to tướng
giữa lối vô: "Đặc biệt hôm nay có bánh xèo, bún chả Hà Nội", nghe ấm
ḷng giữa những ngỡ ngàng xa
lạ.
Bụng đói, mệt phờ phạc. Tôi dán mắt vào cái thực đơn. Giá
phở nhẹ nhàng chỉ $6.95 một tô. Đường xa, lắm khi tôi mơ về một tô phở
nóng. Trong chốc lát, tô tái nạm bốc khói trên bàn. Tôi lướt mắt trên
đĩa rau giá chỉ lèo tèo vài cọng rau quế, hương vị phở dẫu chẳng đậm đà
nhưng cũng đủ trấn an cái bao tử đang có phần nổi loạn
Vừa qua ranh giới Tennessee,
chúng tôi tạm dừng ở khu trạm nghỉ Chatanooga. Vài tiếng đồng hồ thư
giăn tứ chi để rồi tiếp tục một cuộc hành tŕnh nhiều dặm
trường. Hệ thống xa lộ xuyên bang (Interstate Freeway System) - nối
liền hầu như tất cả những thành phố lớn trên nước Mỹ và đă được bắt đầu
xây dựng từ năm 1956, hoàn thành trong năm 1991. Mỗi xa lộ đều có nhiều
trạm nghỉ (rest areas) cách nhau khoảng vài chục dặm để tiện lợi cho du
khách nghỉ ngơi; trạm nghỉ với nhiều chỗ đậu xe và nhà vệ sinh công cộng
sạch sẽ. Lộ tŕnh dài trên xa lộ qua một tiểu bang mới, bạn sẽ luôn gặp
trạm nghỉ đầu tiên thường là Welcome Center (trạm tiếp đón du khách);
ngoài những tiện nghi tối thiểu, c̣n có tiếp tân phục vụ, cung cấp những
thông tin cần thiết và bản đồ hướng dẫn, những địa điểm Welcome Center
thường khá an toàn v́ có nhân viên an ninh thường trực.
Tennessee Welcome Center
Mưa vẫn rơi, tôi nằm co ro trên băng ghế sau nghe âm
thanh của giọt đêm rả rích. Mưa đánh thức trong tôi những cảm xúc sâu
lắng, bồi hồi. Tôi yêu mưa trong những họa phẩm của Utagawa Hiroshige
đầy cuồng nộ, kỳ bí.
Mưa ru tôi ngủ, một tối mùa Đông trên dặm trường đời gió bụi.
ĐMH
|
Mùa đông đi về hướng Bắc - Kỳ 2
Tác giả ở “bên cầu biên giới” bắc ngang sông Mississippi
Trời chập choạng, hai lữ khách rời khu trạm nghỉ Chatanooga hướng ra xa lộ. Tôi bó gối trên
ghế, năo bộ đang bắt đầu trạng thái linh hoạt sau khi uống gần trọn ly café ice latte. Đoạn xa lộ I-24 nối liền giữa hai thành phố của tiểu bang Tennessee: Chatanooga và Nashville. Chúng
tôi đang ghé ngang quê hương của ông Vua Nhạc Rock & Roll nổi
tiếng, và đến tiếc rẻ đă chẳng thể viếng thăm căn nhà Graceland của
Elvis ở Memphis- một tư gia có nhiều khách viếng thăm thứ nh́ nước Mỹ,
sau Ṭa Bạch Ốc của tổng thống Obama. Tôi lục t́m cái CD, mở nghe lại ca
khúc yêu thích. Giọng ca Elvis Presley trầm ấm, say đắm, da diết giữa
đêm vắng:
Are You Lonesome Tonight? Do you miss me tonight? Are you sorry we drifted apart? ………………….. http://www.youtube.com/watch?v=hRwDphZE05g
“Are You Lonesome Tonight”, ca khúc bất hủ được viết
bởi Roy Turk & Lou Handman vào năm 1926, Elvis đă thâu tại pḥng
thâu RCA ở thành phố Nashville vào tháng 4 năm 1960. Tôi chợt nhiên miên
man suy tưởng khi thưởng thức âm hưởng đầy hoài niệm của bản nhạc t́nh
tuyệt vời này.
Đêm thênh thang. Chiếc Chevy Impala độc hành trên xa lộ không đèn.
Mấy cái đĩa nhạc CD replay hàng giờ liên tục, cảm xúc tôi thay đổi theo
tần số sóng âm, lúc êm ả ru ngủ khi th́ xập x́nh kích động màng nhĩ. Xe
chạy qua vùng quê heo hút, cảnh vật tẻ nhạt. Tôi chú ư đến mấy cái bảng
billboard dọc đường quảng cáo motel vùng này chỉ $29/đêm; chợt ngẫm
nghĩ ai sẽ là người thiết tha du lịch
đến cái chốn hẩm hiu này. B́nh xăng dần cạn sau hàng giờ trên xa
lộ. Chúng tôi dừng ở một trạm xăng nhỏ, khu vực này giá xăng $3.45 một
gallon. Thường, những trạm xăng gần xa lộ luôn tiện lợi nhưng giá xăng
cao hơn những khu trong phố, dù chỉ mươi phút bất tiện nhưng chúng tôi
có thể thoải mái đổ đầy b́nh xăng với giá rẻ hơn vài chục cent. Du lịch
đường xa, điều bạn quan tâm nhất là ǵ: giá xăng dầu. Kinh tế càng phục
hồi, th́ giá cả tại các trạm xăng có khuynh hướng càng gia tăng. Chi phí
trung b́nh quốc gia của xăng hạng thường (regular unleaded gasoline)
nói riêng đă 8% cao hơn trong năm nay, hiện tại là $3.529 / gallon, theo
AAA. Dù nhu cầu nhiên liệu giảm đi 10%, dân Mỹ lái xe ít hơn nhưng số
tiền phải chi cho xăng dầu lại tăng
hơn. Andy Nguyễn ở một trạm xăng Tennessee
Tôi bước vào trạm xăng mua thêm vài món snack,
Andy nhanh nhẹn lau chùi mặt kiếng xe, gương chiếu hậu, và đổ xăng.
Chúng tôi quen với việc lái xuyên bang trong đêm nên việc giữ kiếng xe
sạch, không vết bẩn để không bị cản tầm nh́n, rất quan trọng trong
nguyên tắc an toàn lái xe; v́ khi thiếu ánh sáng mặt trời, mắt người
nhận diện màu sắc kém hơn, do đó thị lực cần độ sáng gấp đôi so với
những người trẻ tuổi. Việc lái xe ban đêm phụ thuộc vào 90% khả năng
quan
sát của người cầm tay lái. Khi thị giác đă quen với bóng tối th́ việc
tập trung, quan sát cũng khá thư thả và điều thú vị là chúng tôi không
phải căng thẳng giữa ḍng xe cộ tấp nập. Để chống chọi với cơn buồn ngủ
giữa khuya, bạn có thể kích thích năo bộ bằng những cảm giác căng thẳng,
“rùng rợn” khi tập trung nghe những audio đọc truyện ma kinh dị của
Nguyễn Ngọc Ngạn!
Trên xa lộ, một cửa hàng rộng lớn bán pháo, đèn chớp sáng rùm trời,
rất thu hút du khách. Qua những chuyến đi inter-states trong nhiều năm
trở lại, chúng tôi nhận xét rằng những tiệm bán pháo rất thông dụng ở
các tiểu bang “nhà quê” miền trung và nam nước Mỹ. Trong khi những khu
thành thị ở nhiều tiểu bang có luật cấm bán/đốt pháo v́ lư do an toàn,
những vùng thôn
quê đồng trống không bị ảnh hưởng bởi luật này. Nếu gặp giữa ban ngày
tôi cũng thường ṭ ṃ ghé mua và đốt tại chỗ vài phong pháo thử “vận
may”, hay mua về để dành cho mùa Tết Nguyên Đán năm sau.
Trời
sáng dần. Tấp ngang McDonald’s, tôi nạp năng lượng bằng 2 cái bánh táo
nướng nhẹ calories và 1 b́nh sữa non-fat; Andy th́ xực gọn 2 cái
hashbrowns khoai tây chiên.
Xe dần tiến lên độ cao, tôi cảm giác lùng bùng màng nhĩ. Khí áp và
địa thế thay đổi suốt chiều dài chuyến đi; từ những miền đồng bằng
(Florida, Georgia) lên đến vùng đồi núi chập chùng.
Dăy núi
Appalachian Mountains lờ mờ trong màn sương sớm. Đây chỉ là một đầu của
dăy núi chạy dọc qua nhiều tiểu bang miền Đông nước Mỹ và Canada; điểm
cuối dăy đá này ở Nova
Scotia. Một lần, lái xe qua đoạn đèo núi hiểm trở West Virginia, mưa
đêm như thác nước mịt mù tầm nh́n, tôi mở quạt nước tối đa, giảm tốc độ
xuống chỉ 15mph chậm hơn giới hạn tốc độ 40 mph, vẫn nơm nớp cảm giác bị
tai nạn. Dọ dẫm qua từng cua quẹo, hơn nửa giờ sau tôi nhẹ nhơm thoát
khỏi cơn giông của vùng núi đồi hiểm nghèo đó.
Downtown St. Louis
Rạng sáng, chúng tôi đến St. Louis và t́m vào khu downtown.
Andy gọi St. Louis là “thành phố Thép” v́ nơi này có rất nhiều cầu sắt
được xây trong nhiều
thập niên qua. Downtown St. Louis lờ mờ trong màn sương mù ảm đạm, phố
cuối tuần thưa thớt khách văng lai. Chúng tôi t́m được parking trong khu
phố cũ, rồi lội bộ đến khu Riverfront cạnh bờ sông Mississippi hùng vĩ
danh tiếng. Tôi đứng chụp h́nh ở “bên cầu biên giới” bắt ngang ḍng sông
Mississippi.
Một kiến trúc h́nh ṿng cung mỗi lúc một lớn dần trong tầm mắt, sừng
sững mờ ảo trong màn sương mù.Thoạt nh́n, trông như cây cầu ṿng thép
khổng lồ ẩn hiện kỳ bí giữa những đám mây.
Đặng Mỹ Hạnh dưới chân cầu ṿng Thép
Tỉ lệ giữa người và kiến trúc đồ sộ
Khó có thể tưởng tượng đây là một “kỳ quan” của con người –Gateway
Arch - một kiến trúc tuyệt đẹp; được chọn trong một cuộc thi vẽ kiểu
cho đài tưởng niệm vinh danh những người tiên phong về miền Tây Mỹ vào
năm 1947 (sau khi Đệ Nhị Thế Chiến vừa kết thúc). Cầu ṿng Gateway Arch
không chỉ là biểu tượng của
thành phố St. Louis mà c̣n là Đài Tưởng Niệm Quốc Gia (Jefferson
National Expansion Memorial).
Hàng giờ ê ẩm trên ghế xe nên hai
chúng tôi không chút phàn nàn leo hàng chục bậc thang cấp để được cảm
giác chạm tay vào mặt thép lạnh của chân móng cầu ṿng. Công tŕnh vĩ
đại này đă được bắt đầu vào năm 1963 với hai đầu cầu ṿng cách nhau 630
feet, và được xây lên cao dần và nối lại ở điểm cao nhất (630 feet) vào
năm 1965. Với kinh phí 13 triệu đô, Gateway Arch được xây cất bằng thép,
rất vững chắc, và có thể chịu đựng những luồng gió mạnh và động đất.
Tôi ngước nh́n lần cuối “cây cầu ṿng thép” với tất cả sự ngưỡng
mộ.Văn minh phải chăng chính là tŕnh độ chế ngự thiên nhiên của con
người?
Rời St. Louis, cơn mưa rỉ rả
suốt dọc đường. Tôi giở xem lại tấm bản đồ hành tŕnh chi chít những
biển chỉ dẫn, phương hướng, lộ tŕnh-như cấu trúc và h́nh dạng cuộc
sống- cuốn hút và phức tạp. Sau mỗi chuyến đi xa, tôi luôn mang cảm giác ḿnh đang lớn thêm và trái đất dường như dần nhỏ lại…
ĐMH
|
Mùa đông đi về hướng Bắc - Kỳ 3
Chiếc Chevy Impala lẻ loi ở khu vực Service Plaza
Tôi dường như luôn bị lôi cuốn bởi sự đa dạng của từng miền khí hậu trên đất nước Hoa Kỳ. Mùa đông, những loài chim trốn lạnh về vùng ấm, tôi ngược ḍng cảm giác trên những vùng gió tuyết hoang lạnh.
Xe
băng qua cánh đồng đêm. Nhiệt độ 34 độ F, cơ thể càng nhạy cảm với sự
dao động về khí áp; tôi co chân t́m hơi ấm trong cái chăn mỏng
rồi lục t́m vài món snack để đốt ngắn đoạn đường hun hút.
Vài
giờ đồng hồ workout cái xương hàm, mở cả chiều dọc lẫn ngang để nghiền
ngẫm gần trọn bịch khô ḅ và vài phong chewing gum, tôi ngồi nhẩm tên
từng địa danh đă đi qua: Georgia, Tennessee, Kentucky, Illinois,
Missouri…
Giữa khuya, chúng tôi đến “Ai-ô-̣a”(Iowa)-một tiểu bang thuộc miền
Trung Tây Hoa Kỳ; giáp với Minnesota về hướng Bắc, Nebraska và Nam
Dakota về hướng Tây, Missouri về hướng Nam, và Wisconsin và Illinois về
hướng Đông.
Quad Cities là một trong những điểm ngừng của kế hoạch cuộc hành
tŕnh săn ảnh wildlife. Tứ Thành gồm 4 thành phố nhỏ nằm hai bên bờ sông
Mississippi: Davenport, Bettendorf, Rock Island, và Moline; và dù những
thành phố này nằm trong hai tiểu bang khác nhau (Iowa
và Illinois), có số vùng (area codes) khác nhau, nhưng người dân ở đây
vẫn không phải trả tiền điện thoại viễn liên khi gọi qua vùng khác v́
đây là cấu trúc đặc biệt của khu vực Quad Cities để được xem như một
cộng đồng chung.
Cái giá biểu $3.13/gallon ở trạm xăng giữa thị trấn Tứ Thành chợt
níu kéo những bước chân đang t́m bến đỗ. Tài xế Andy hí hửng đổ đầy b́nh
chứa xăng rồi “sơ cua” một b́nh dự trữ để trên xe. Nhiệt độ về đêm
xuống 24 độ F. Trời lạnh, tôi chế đầy một b́nh thủy nước nóng để pha trà
và nước Chocolate; Andy th́ hứng thú với tô ḿ ăn liền kim chi nóng
hổi.
Vào những ngày Đông,
kích thích lạnh sẽ tác động vào trung khu điều tiết nhiệt độ cơ thể
khiến cho mạch máu dưới da co lại, làm giảm đi nhiệt độ cơ thể; giảm
thiểu sự tỏa nhiệt của da, làm tăng độ căng cơ sườn và trao đổi chất nên
xuất hiện trạng thái “run cầm cập”. Vài ngộ nhận cho rằng nếu uống rượu
sẽ làm “nóng” người, nhưng nên tránh uống rượu v́ rượu có tác dụng làm
giảm nhiệt độ cơ thể khi trời lạnh. Và dù mùa nóng hay lạnh, cơ thể vẫn
đổ mồ hôi và cần lượng nước đầy đủ.
Tôi luôn cẩn trọng nạp đủ chất dinh dưỡng để cung cấp thêm năng lượng. Được biết, một trong
những đặc tính của “động vật có vú” –là khả năng giữ nhiệt độ cơ thể ổn định để thích nghi với sự thay đổi của thời tiết. Một
giờ sau, chúng tôi ghé ngang Walmart t́m mua vài món đồ lặt vặt; t́nh
cờ thấy có cả winter coats cho chó. Như một quy luật - những giống tiểu
cẩu luôn cần sự ấm áp v́ cơ thể không thể giữ nhiệt độ tốt ở môi trường
lạnh. Tôi đứng ngắm nghía cái jackets tí hon của loài cún con, một item
khác lạ không có ở những chi nhánh Florida. Tôi t́m lựa cho ḿnh đôi bao
tay có “cửa sổ” đóng mở, loại heavy duty có tác dụng tốt ở những vùng
khí hậu lạnh khắc nghiệt
Winter coats cho tiểu cẩu
Mùa đông, những loài chim thiên di đến vùng ấm,
tôi Bắc du t́m cảm giác “khác thường”. Thay v́ dùng lộ tŕnh ngược lên
từ Florida đến Canada theo phương “thẳng lèo” như những snowbirds từ
Canada xuống tránh lạnh ở Florida, chỉ lái khoảng 2,600 dặm, hai tay săn
ảnh chúng tôi lại dùng lộ tŕnh “đường tam giác” sẽ phải xa gần gấp đôi
đoạn đường để đến địa điểm săn ảnh đại bàng ở Iowa, nằm chếch về hướng
Tây Bắc.
Tạm “dừng bước giang hồ” ở một motel giá chỉ $49.99/đêm giữa thị
trấn
nhỏ Davenport. Quad Cities chỉ có vài motels nhỏ trông rất tồi tàn, v́ ở
những vùng này không mấy thu hút khách du lịch nên tiêu chuẩn pḥng trọ
thường rất thấp. Bởi để tiện lợi cho việc di chuyển gần khu vực săn ảnh
Bald Eagles chúng tôi đă không có nhiều lựa chọn.
Chỉ lèo tèo vài khách nhưng người nhân viên duy nhất ở đây cứ tà tà,
làm mất cả mươi phút ở quầy tiếp tân, chúng tôi mới nhận được cái thẻ
pḥng ngủ. Chúng tôi c̣n được “self service” một mớ khăn tự ôm về pḥng.
Cái cảm giác của sự tồi tàn theo tôi đến tận pḥng. Restroom duy nhất
một cái bồn rửa mặt ố vàng thời cổ đại, nước vặn lên th́ rỉ rỏ như từng
café giọt, một pḥng tắm đứng nhỏ xíu với tấm màn che tơi tả; lúc tắm
th́ nước mặc sức từ trong tuôn
lênh láng khắp sàn ngoài, chưa kể đến cái cầu tiêu như chẳng hề bao giờ
được tiếp xúc với những loại dung dịch cọ rửa. Thảm lót hoen ố cũ kỹ,
bốc mùi ẩm mốc. Tôi phải ra xe đem vào đống chăn mền mang theo để trải
lót thay cho mớ chăn mền cáu bẩn trên chiếc giường con xập xệ.
Dù ngồi xe mệt mỏi, tôi vẫn lăn lộn thao thức. Tôi tưởng tượng đủ
thứ, nào là bầy gián cánh từ những ngơ ngách quanh co sẽ tràn ra tấn
công chúng tôi. Những con chuột nhắt sẽ chui vào mền và người tôi. Mùi
ẩm mốc cứ thốc vào mũi, khó ngủ, và bỗng dưng da diết nhớ cái giường
đệm êm ấm thơm mùi chăn gối trong căn pḥng ngủ của riêng ḿnh hơn bao
giờ hết.
Rạng sáng, rời khỏi căn pḥng trọ đầy nightmare, hai chúng tôi hướng đến địa điểm
săn ảnh Bald Eagles. Khoảng cách từ motel đến đó chỉ mươi phút, sự sắp xếp của Andy luôn hợp lư.
Hằng
năm, hàng chục ngàn người đến thượng lưu sông Mississippi để xem Bald
Eagles, với nhiều người có thể là lần đầu được chiêm ngưỡng vẻ đẹp oai
hùng của loài cầm điểu biểu tượng của Mỹ Quốc.
Mùa đông có đến 2,500 chim Đại Bàng về đây và tập trung ở những đập
nước dọc con sông Mississippi; hệ thống khóa và đập nước đă được xây
dựng vào thập niên 1930s bởi Liên Đoàn Kỹ Sư Bộ Binh Mỹ và hiện vẫn đang
dưới sự điều hành của họ. Có hơn 20 đập nước và khóa nằm dọc chiều dài
sông Mississippi từ Illinois, Missouri, Iowa, đến Minnesota,
Wisconsin.Những đập nước này được xây với mục đích điều ḥa chiều sâu
của mực
nước khoảng 9 ft giữa 2 đập để ghe thuyền qua lại, và có tác dụng như
những bực thang đi từ cuối sông đến thượng nguồn. Nếu không có hệ thống
đập này, khó ḷng cho tàu thuyền lưu thông trên một ḍng sông mà sự
chênh lệch về cao độ rất lớn.
Loài chim Bald Eagles thường thích tụ tập ở những địa điểm này v́
ḍng nước xoáy chảy qua những đập nước mang theo những luồng cá lớn.
Những con cá vừa bị “choáng váng” chưa kịp thở do ḍng nước dồi dập th́
đă trở thành mục tiêu dễ dàng cho loài Đại Bàng sà xuống săn bắt. Hai
bên bờ sông có nhiều cây rừng rậm rạp là nơi lư tưởng để Đại Bàng ngủ
qua đêm.
Khi Đông qua đi và khi mùa Xuân đến, Đại Bàng bắt đầu rời nơi đây bay về phương Bắc Minnesota, Wisconsin, và Canada để
làm tổ và sinh sản.
Chúng tôi đến địa điểm săn ảnh th́ đă có gần
30-40 photographer trang bị ống kính tele rằn ri “dữ dằn” và đang trong
tư thế sẵn sàng để ghi nhận những khoảnh khắc Eagles săn bắt cá.
Đại bàng
Gió Đông se sắt, chúng tôi đứng ở
mé sông và gắng giữ thế thăng bằng kiềm chặt ống kính bằng handheld.
Những tay săn ảnh wildlife dường như chẳng hề nao núng với cái
lạnh lẽo. Ở họ, tôi cảm nhận một niềm đam mê đến đáng ngưỡng mộ.
Để
có một bộ sưu tập về h́nh ảnh Bald Eagles, chúng tôi đă từng trải qua
nhiều cuộc hành tŕnh săn ảnh đầy gian nan và thường luôn làm việc dưới
thời tiết khí hậu khắc nghiệt.
Chiều chập choạng. Kết thúc phần săn ảnh Đại Bàng. Chúng tôi c̣n mục tiêu chánh là loài Cú Tuyết ở Bắc Canada.
Rời
địa điểm hot spot, Andy bấm vào máy chỉ dẫn đường (GPS navigator) t́m
địa chỉ một nhà hàng Mỹ “nổi tiếng nhất thế giới” trong khu vực này đó
là McDonald’s. Chiếc xe chạy ṿng vo theo sự điều khiển của người đẹp
trong máy: “đi thẳng nửa dặm, quẹo phải ở góc đường 61, McDonald’s ở bên
phải của bạn.” Ngừng xe ở góc đường, “hai trẻ lạc” trông
thật ngớ ngẩn, vô định v́ chẳng t́m đâu ra cái logo của McDonald’s ở
khu vực này. Trước đây, vài lần, chúng tôi đánh t́m địa chỉ các quán ăn
Việt, cũng theo sự hướng dẫn của GPS để lần t́m đến nơi th́ các quán xá
này đă “âm thầm dẹp tiệm” từ mấy thuở nào.
V́ thế, để có được những tin tức chính xác hiện hành, bạn luôn cần cập
nhật những phiên bản mới nhất (lastest version) và nên có bản đồ “sơ
cua” khi du lịch đường xa, không nên quá lệ thuộc vào người đẹp GPS
navigating system.
Andy trả tiền toll fee
Du lịch đường dài, ngoài chi phí về xăng nhớt th́ chúng tôi c̣n phải chi thêm phần “thuế măi lộ” (paytoll) đáng kể.
Đoạn xa lộ I-80
băng ngang qua tiểu bang Indiana/Ohio cũng có tên khác là Indiana Toll
Road và Ohio Turnpike. Khách du lịch cần phải trả tiền toll để lái xe
trên xa lộ này; ngược lại, họ được trao đổi bằng sự tiện lợi và nhanh
chóng. Dọc xa lộ có nhiều trạm nghỉ (service plaza) với mọi phương tiện
cho khách du lịch như: quán ăn, máy rút tiền, chỗ đậu xe, cây xăng, và
pḥng vệ sinh rất rộng răi và sạch sẽ.
Bên trong trạm nghỉ Service Plaza ở Ohio
Khi đến Ohio th́ chiều đă xuống nhanh, chúng tôi
ghé vào một Service Plaza ở gần Cleveland. Khu Plaza sạch sẽ, thoáng
rộng, có tiệm café Starbucks mở cửa 24 giờ. Tôi order một ly café ice
latte rồi đứng tán gẫu với cô nhân viên bán hàng và được biết khu Plaza
này chỉ mới mở cửa được 8 tháng. Tôi khui lon bắp lót dạ qua loa, Andy
th́ vẫn luôn trung thành với ḿ tô kim chi.
Hàng giờ với áp lực đặt lên vùng bàn tọa.Tôi rời xe, duy tŕ thói
quen vận động bằng 15 phút chạy bộ quanh khu trạm nghỉ để giảm cảm giác
chồn chân. Sự tích tụ 50% lượng chất béo ở vùng mông; các tế bào mỡ sản
sinh ra các triglyceride, một dạng chất béo tích tụ trong cơ thể với
một tốc độ nhanh hơn khi ngồi quá lâu; béo ph́, chỉ đơn giản là t́nh
trạng mất cân bằng lượng calories.
Vài giờ nghỉ ngơi trước khi
qua biên giới Canada. Tôi mở nghe CD nhạc ḥa tấu; giai điệu tuyệt vời
của Sad Angels- Igor Krutoy đánh thức giác quan về ṿng xoáy của cuộc
đời- những suy tư chất chứa, những băn khoăn về đời sống và những khoảnh
khắc ngắn ngủi không tên gọi.
Hăy sống chậm và cảm nhận cuộc sống, đi tôi!
ĐMH
|
Mùa đông đi về hướng Bắc - Kỳ 4
Thác Móng Ngựa (Horseshoe Fall)
Trời hửng sáng,
xe tiến về hướng Buffalo, New York trước khi băng qua cầu Peace Bridge
biên giới Mỹ/Canada. Xứ sở sầu đông có cái nickname “Đại Bạch Bắc” (The
Great White North) welcome chúng tôi với vẻ ảm đạm của một ngày Đông
xám.
Văn pḥng Customs and Immigration đón hai du khách đến từ Mỹ Quốc
bằng loạt thủ tục chất vấn rất mực chi li. Sau hơn nửa giờ đồng hồ tra
vấn, kiểm soát tận tâm t́nh
trạng sức khỏe người và xe; hai cái passport được trao trả tận tay cho
hai “khổ chủ” kèm theo nụ cười và lời chào mừng rất quy tắc của nhân
viên hải quan -Welcome to Canada!
Biên giới Mỹ/Canada ở cổng Peace Bridge
Trên xa lộ,
chúng tôi chú ư đến biển báo tốc độ 100km/h. Canada dùng đơn vị thập
phân khác hệ imperial như ở Mỹ, tài xế Andy phải bấm hoán đổi ra đơn vị
km trong cái đồng hồ tốc độ digital của xe cho phù hợp; tôi dán mắt vào
cửa xe, cảm giác hiu quạnh khi trực diện với cái giá lạnh vùng Đông Bắc.
Từ cầu Peace Bridge chỉ cách vài chục cây số đường để
đến Niagara Falls- một thành phố du lịch nằm ở phía Nam Canada; hai ngọn
thác Horseshoe và American Falls hợp ḍng tạo thành một kỳ quan thiên
nhiên danh tiếng: Niagara Falls.
Sau khi ghé thăm Ontario Welcome Center, được biết vài dữ kiện lư thú về Niagara Falls:
- Thác Horseshoe cao khoảng 60 thước và rộng 633 thước.
-
Xếp hạng ba trên thế giới nhờ sự kết hợp của chiều cao, chiều rộng,
khối lượng nước khổng lồ với tiềm năng hơn 168,000 m³ nước rơi xuống mỗi
phút vào thời điểm nhiều nhất, và trung b́nh gần 110,000 m³ mỗi phút.
- Là thác nước mạnh nhất ở Bắc Mỹ, thể tích nước rất lớn của thác đă tạo thành sức mạnh cho nhiều nhà máy thủy điện.
- 28
triệu lượt người viếng thăm/năm.
- Được xem là thủ đô trăng
mật của thế giới kể từ đầu thế kỷ thứ 20 đến nay. Hơn năm mươi ngàn cặp
tân hôn chọn Niagara Falls làm nơi du hưởng trăng mật hàng năm nhờ vẻ
lăng mạn cùng những tiện nghi giải trí hấp dẫn.
- Vài điểm thu hút ở Niagara Falls: Maid of the Mist, Journey Behind
the Falls, xem ngoạn cảnh bằng trực thăng với Niagara Air Tours, 8 sân
cù tiêu chuẩn quốc tế, phố cổ mua sắm và kịch nghệ Niagara-on-the-Lake,
chưa kể nhiều khách sạn 5 sao và các ṣng casino cao cấp.
Thác Niagara c̣n là nơi cho những kẻ liều mạng trổ tài thực hiện
những tṛ giỡn mặt với tử thần, và được “gán” biệt danh là “kinh đô tự
tử” của Hoa Kỳ chỉ sau cây cầu Golden Gate ở San Francisco.
Uớc
tính có
khoảng từ 20 đến 25 vụ tự tử tại Niagara Falls mỗi năm. Năm 1996, nhà
sử học Paul Gromosiak biên soạn một danh sách của 2,780 vụ tự tử được
biết đến từ năm 1856 đến năm 1995. Năm 1991, Tạp chí Y tế Công cộng Hoa
Kỳ đưa một báo cáo đầy đủ 60 người thiệt mạng tại thác từ năm 1978 đến
năm 1988. Trong số đó, 59% là nam giới và 41% là phụ nữ. Độ tuổi trung
b́nh của phụ nữ là 38, và đối với nam giới là 39. Theo tờ báo địa phương
The Niagara Falls Reporter, ngày lễ Memorial Day hàng năm theo truyền
thống “đánh dấu sự khởi đầu của mùa tự tử”!
Một Viện Bảo Tàng phía bên kia Cầu Mống - Rainbow Bridge lưu trữ các
thành tích của những người “liều mạng” vượt thác Niagara. Nơi đây trưng
bày một cách biên niên sử đầy đủ h́nh ảnh, báo
chí tường thuật, vật chứng của một số thùng phuy và các dụng cụ khác mà
những tay liều mạng dùng để thực hiện những cú nhào xuống thác ngoạn
mục có khi chết người.
Những “yên hùng” ấy, họ là ai?! Họ chỉ là
những người muốn nổi tiếng hoặc chỉ để thỏa măn cảm giác vượt qua thách
thức và có khi chỉ muốn... tự vẫn!
Dẫu ngay khi tần suất biên độ phần trăm của nguy cơ rối loạn sắc khí
trong cuộc đời bạn đang ở mức báo động (là thất t́nh, là chán đời, là
làm biếng sống... đó bạn) chớ nên lầm tưởng đây là một “địa chỉ” lư
tưởng để quyên sinh!
Tác giả trước vực thác Móng Ngựa
Tôi đang đứng bên bờ thác Horseshoe hùng vĩ, mê
lực của thác nước chợt đánh thức mọi miền cảm thức; tôi dường như được
tắm ḿnh trong ḍng xiết chảy-dồn dập những âm thanh thác đổ ầm ầm-
những âm lực đầy huyền bí tựa tiếng gầm thét vang vọng. Một ḍng chảy
khổng lồ bằng bạc tỏa một thứ ánh sáng huyền hoặc giữa muôn vàn bọt
nước, cuồng nộ đổ xuống một vực hồ cuốn xoáy. Niagara, tên gọi bắt nguồn
từ “Onguiaahra” trong tiếng thổ dân Iroquois có nghĩa là “tiếng gầm của
nước”.
Khi tâm tư lắng vào mênh mông của ḍng thác chảy, cảm xúc tôi dịch
chuyển từ trạng thái gấp gáp nôn nao sang chậm chạp tĩnh lặng, tôi chợt
nhiên nghe hồn ḿnh gợi lên một ước vọng về một cơi hoang sơ và an b́nh
nằm sâu trong tâm thức. Và dường như ch́m sâu trong những tiếng gầm
thét ấy là một sự yên tĩnh lạ thường. Vô thanh và vô ngôn.
Rời Niagara Falls, hai tay săn ảnh chuyển tiếp đoạn trường săn ảnh
loài cú tuyết Bắc cực. Chiếc xe ḥa vào ḍng chảy xô bồ trên xa lộ
QEW-một xa lộ được mang tên nữ hoàng Elizabeth của Anh Quốc đă được
thành lập trong thời kỳ Canada vẫn c̣n thuộc địa của xứ Ăng Lê.
Xe chạy ngang một trạm xăng nhỏ, tâm trí tôi luôn ở trạng thái hiếu
kỳ trước những sự việc khác lạ dù chỉ là cái giá biểu xăng được biểu thị
ở đơn vị xu/lít. Andy nhẩm tính rằng 117 ¢/lít
vẫn mắc hơn so với giá xăng ở Mỹ.
Đất nước Canada có diện tích
rộng lớn hơn Hoa Kỳ nhưng dân số chỉ bằng một phần mười dân số của Mỹ.
Đoạn đường từ Niagara Falls đến Toronto hơn 120 cây số và chỉ lác đác
vài làng nhỏ dọc xa lộ.
Thành phố Toronto với khoảng hai triệu năm trăm ngàn dân, có một
trong những cộng đồng người Việt lớn nhất Bắc Mỹ Châu với hơn 120,000
người sống trong vùng Greater Toronto Area (GTA), không thua kém cộng
đồng Việt ở Cali, Houston, Virginia. GTA tập trung 4 khu phố Tàu nằm ở 4
góc của đại đô thị Toronto: phố Tàu Toronto nằm trong khu vực Downtown;
phố Tàu North York ở phía Bắc; phố Tàu Mississauga về phía Tây; và phố
Tàu East York bên hướng Đông. Gọi là phố “Tàu” nhưng xen kẽ nhiều cơ sở
thương mại được
làm chủ bởi người Việt gốc Hoa hoặc người Việt Nam. Sinh hoạt của người
Việt và Hoa tại đây ngoài những điều dị biệt về ngôn ngữ và phong tục
cũng có những điểm tương đồng nói chung của những người di dân đến từ
Châu Á.
Chiều, trực chỉ vào Phố Tàu, bốn mươi phút ḷng ṿng căng thẳng t́m
băi đậu trong khu chợ chật hẹp, hỗn tạp, cuối cùng cũng rời được cái xe
để hối hả cuốc bộ viếng khu Chinatown.
Phố Tàu Spadina
Khu phố Tàu - chợ Việt cũ kỹ với những building trăm tuổi,
ḷe loẹt vô
số bảng hiệu đầy màu mè với chữ Hoa, chữ Anh, chữ Việt; phố Tàu xưa chỉ
quanh quẩn với hai nghề bán ăn và giặt mướn; phố Tàu thời nay sầm uất
chen chúc những cơ sở thương mại Đông phương.
Sạp trái cây ở khu Phố Tàu
Lịch sử phố Tàu Toronto
là lịch sử của vấn đề hội nhập một chủng tộc da vàng đến định cư trên
đất nước Canada lạnh lẽo và trù phú. Theo tài liệu ghi nhận của thành
phố vào năm 1877 chỉ có hai Hoa kiều hiện diện tại đây:
đó là ông Sam Ching ở số 8 đường Adelaide East và ông Wo
Kee ở số 385 của đường Yonge. Hai xếnh xáng này là chủ nhân của 2 tiệm giặt quần áo bằng tay.
Dừng
chân ở một sạp trái cây, tôi hờ hững liếc qua thùng chôm chôm queo quắt
và chẳng mấy mặn mà với mấy trái măng cầu, măng cụt èo ọt; chợt tiếc rẻ
đây chẳng phải là dịp Hè để thỏa măn cơn ghiền trái cây nhiệt đới.
Bên trong một tiệm food-to-go của người Việt ở khu Phố Tàu
Rời khỏi tiệm Chè và Bánh Ḿ Cali ở số 318 Spadina
Avenue, hai du khách lỉnh kỉnh xách theo vài bịch food-to-go, bao tử
luôn mường
tượng đến những món ăn Việt sau nhiều ngày ngao ngán với fastfood.
H́nh
ảnh cuối ngày bất chợt gợi trong tôi nhiều cảm xúc - một cụ già người
Việt co ro trong chiếc áo dạ Đông đứng bán những món quà bánh tự làm bên
lề đường. Một thoáng quê hương giữa ḍng đời hối hả...
Xe rẽ ra xa lộ 401 tiến về hướng Quebec, tiếp nối cuộc hành tŕnh
xuyên đêm đến miền hoang lạnh - một cuộc hành tŕnh săn ảnh cú tuyết kỳ
thú đầy hứa hẹn.
ĐMH
|
Thiên đường nhiệt đới - Kỳ 1: Một nơi cũng giống quê hương
Đặng Mỹ Hạnh Vài
giờ đồng hồ trên chiếc phi cơ của hăng Jet Blue,
bay thẳng từ Orlando đến thủ đô San Jose, tôi với những háo hức khi
nghĩ đến một địa danh sắp đến đă nằm trong tâm thức: COSTA RICA - đất
nước trù phú với nhiều khu bảo tồn sinh thái và rừng nhiệt đới - một địa
bàn thiên nhiên đầy ước mơ của những tay săn ảnh wildlife trên thế
giới.
Tác giả ở phi trường San Jose
Máy bay đang ở độ cao 36,000 bộ, tốc độ 524 dặm/giờ.
Điền xong cái đơn khai nhập cảnh,
tôi nôn nao nh́n ra cửa ṭ ṿ để quan sát; từ góc độ trên không, đất
nước Costa Rica như một họa phẩm thủy mặc mộc mạc, thấm đượm sắc màu đại
ngàn.
Với diện tích hơn 51,000 km2 và dân số gần 5 triệu người,
Costa Rica là một nước theo thể chế dân chủ, nằm ở Trung Mỹ, biên giới
phía Nam giáp Panama, phía Bắc giáp Nicaragua, một quốc gia ḥa b́nh nên
từ năm 1949, đă không có quân đội cho đến ngày nay.
Chiếc Airbus A320 đang trong tư thế chuẩn bị hạ cánh xuống phi
trường San Jose - thủ phủ của xứ sở Costa Rica; đồng hành Andy dường như
vẫn đang bị cuốn hút
bởi loạt h́nh ngoạn cảnh từ trên không, tôi chợt băn khoăn giữa đôi
ḍng cảm xúc thuận nghịch - chút háo hức xen lẫn hoang mang khi đến một
đất nước xa lạ không lệ thuộc vào sự hướng dẫn của tour guide đă là một
sự thử thách khá... liều mạng, dẫu những hoạch định về du tŕnh của
chuyến đi đă được Andy chuẩn bị rất chu toàn vài tháng trước đây.
Costa Rica bên dưới.
Sinh cung nhân mă nên hai lăng tử chúng tôi trót lụy những hành tŕnh viễn du.
Tôi nh́n đồng hồ: 2 tiếng 45 phút trọn đường bay từ phi trường Orlando
(MCO) đến San Jose (SJO). Thời kế tự động, con người tựa ḿnh vào những
gánh nặng của quá khứ nên ngày càng trở nên máy móc với thời gian. Trong
hằng thức của riêng tôi, thời gian nằm trong mỗi vật thể vũ trụ và
trong sự sâu thẳm của tâm hồn; thời gian có mặt trong mỗi phân tử, mỗi
tế bào, mỗi giây thần kinh, mỗi suy tư, mỗi cảm xúc...
Đến sân bay San Jose
, âm thanh rù ŕ băng chuyền hành lư tạo
cảm giác thúc giục, hứng khởi. Hai tay săn ảnh h́ hục kéo lê đống hành
ly cá nhân, kiên nhẫn qua từng khâu kiểm soát an ninh.
Xếp hàng chờ làm
thủ tục nhập cảnh, chúng tôi đứng “tám” chuyện với một “Tây ba-lô”
thường niên ngao du dọc ngang từng miền của xứ sở Trung Mỹ. Vài trao đổi
kinh nghiệm du lịch với chàng huê kiều này cũng tạm trấn an cái tinh
thần đang chút dao động của hai du khách da vàng.
Bài học thứ nhất được truyền đạt là không để bất kỳ đồ đạc cá nhân trên xe, kẻ cắp có mặt ở khắp mọi ngơ ngách.
Tôi nhẹ nhơm sau phần thủ tục nhập cảnh đơn giản,
suông sẻ, nhân viên hải quan đóng mộc 90 ngày gia hạn (thời hạn tối đa
của visa và điều này c̣n tùy thuộc vào khả năng đối đáp, và lư do xin
nhập cảnh của bạn). Với kỹ nghệ du lịch trị giá 1.7 tỷ Mỹ kim, Costa
Rica là nước đông khách du lịch nhất khu vực Trung Mỹ. Ngành du lịch
sinh thái trở thành nguồn ngoại tệ lớn nhất, bởi đất nước này cũng
không chạy theo đồng đôla của các viện bào chế thuốc tây Âu Mỹ hay của
các tập đoàn khai thác phương Tây để bán rẻ tài nguyên thiên nhiên của
ḿnh. Nhờ vậy mỗi năm có hơn 2 triệu du khách nước ngoài t́m đến đất
nước nhỏ bé này.
Vừa rời khỏi phi trường
, hai viễn khách chợt ngơ ngáo giữa một rừng âm thanh hỗn độ
|
|
|
|
|